Thứ Bẩy, 20/04/2024 13:53:21 GMT+7

Tin đăng lúc 26-03-2018

Lượt xem: 2895

Agribank - 30 năm lớn mạnh cùng Tam nông

Lịch sử 30 năm hình thành và phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) đã khẳng định sự kiên định của một thương hiệu ngân hàng đồng hành với Tam nông.
Agribank - 30 năm lớn mạnh cùng Tam nông
Agribank kiên định thương hiệu ngân hàng đồng hành với Tam nông.

Với sứ mệnh lịch sử được định vị từ ngày đầu thành lập gắn với công cuộc Đổi mới của đất nước, đến nay trải qua chặng đường 30 năm xây dựng và trưởng thành, với những dấu ấn đáng ghi nhớ, Agribank đã từng bước lớn mạnh vững chắc, đóng góp to lớn vì sự phát triển của nông nghiệp, vì sự phồn thịnh của nông thôn, nông dân Việt Nam.

 

Lớn mạnh cùng kinh tế đất nước

 

Vào nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, sau rất nhiều trăn trở, trả giá và trước những năm tháng khó khăn nhất của nền kinh tế, năm 1986, tại Đại hội VI của Đảng, công cuộc Đổi mới được chính thức bắt đầu và được triển khai chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đi theo đường lối Đổi mới của Đảng VI và xác định đổi mới hệ thống ngân hàng là khâu then chốt, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam - tiền thân của Agribank ngày nay đã được ra đời ngày 26/3/1988 theo Nghị định số 53/NĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/7/1988 trên phạm vi cả nước. 

 

Ra đời đúng vào thời kỳ nền kinh tế vừa mới “lột xác” để chuyển đổi sang kinh tế thị trường với bao bộn bề gian khó và cả những bỡ ngỡ trải nghiệm trước cái mới, trong khi những di sản nặng nề của một quá khứ “quan liêu bao cấp” với những thể chế, những con người của một mô hình kinh tế tồn tại suốt mấy chục năm không thể ngày một ngày hai là có thể thay đổi, lúc đó Agribank phải đối mặt với muôn vàn thách thức tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Tổng tài sản chưa tới 1.500 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn 1.056 tỷ đồng, trong đó vốn huy động chỉ chiếm 42%, còn lại 58% phải vay từ Ngân hàng Nhà nước. Tổng dư nợ 1.126 tỷ đồng, trong đó 93% là ngắn hạn; tỷ lệ nợ xấu trên 10%. Khách hàng hoàn toàn là các doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phần lớn là làm ăn thua lỗ, lao động thiếu việc làm, nguy cơ phá sản luôn rình rập…

 

Nhìn lại quá khứ, những khó khăn từ thuở “trứng nước” tưởng chừng khó vượt qua đó lại chính là môi trường tôi luyện để Agribank có một bản lĩnh vững vàng trước mọi gian khó để vươn lên, đi tiếp và gặt hái thành công trong một lĩnh vực tiềm năng những cũng đầy rủi ro, bấp bênh - đó là nông nghiệp, nông thôn.

 

Trên hành trình đó, sự đóng góp của Agribank với vai trò chủ lực trên thị trường vốn và tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân có ý nghĩa kinh tế, chính trị và xã hội sâu sắc. Hoạt động của Agribank thực sự gắn với làng bản, xóm thôn và gần gũi với bà con nông dân. Từ đồng vốn của Agribank, nông nghiệp và nông thôn khởi sắc nhờ phá thế độc canh, chuyển dịch cơ cấu và nông dân - những người bạn đồng hành của Agribank ngày càng trưởng thành, biết tự vượt lên nghèo đói và vươn tới làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương mình.

 

Khu vực nông nghiệp và nông thôn là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển nhưng đồng thời cũng chịu nhiều rủi ro nhất do hoạt động sản xuất của khu vực này lệ thuộc lớn vào các yếu tố thời tiết, khí hậu và thiên tai. Là ngân hàng chuyên doanh cho khu vực kinh tế này, Agribank luôn phải đối mặt với những khó khăn và rủi ro và thực tế đã không ít lao đao trước những thất bát của ngành nông nghiệp. 
 

Điểm lại hành trình của Agribank với nông nghiệp Việt Nam qua các chương trình tín dụng từ những năm 90 của thế kỷ trước như Chương trình mía đường, Chương trình cho vay tôn nền hoặc làm nhà trên cọc ở Đồng bằng sông Cửu Long, Cho vay các đơn vị thu mua lương thực dự trữ xuất khẩu, thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá theo yêu cầu của Chính phủ, Cho vay khắc phục hậu quả lũ lụt, Chương trình cho vay cải tạo vườn tạp thành vườn chuyên canh (các tỉnh ĐBSCL), Chương trình điện khí hóa, Giao thông nông thôn ở TP HCM, An Giang, và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cho vay khôi phục nghề truyền thống…; hay những chương trình tín dụng gần đây nhất như cho vay theo Nghị định 67 về phát triển khai thác thủy sản; cho vay tái canh cà phê; cho vay xây dựng nông thôn mới; tín dụng nông nghiệp sạch, phát triển nông nghiệp công nghệ cao; …, có thể khẳng định quá trình hồi sinh, trụ vững và ngày càng phát triển vững mạnh của Agribank luôn gắn với sự vận động đi lên của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, trong đó mỗi hộ nông dân là một tế bào sống và ngày càng lớn mạnh. Điều đó thật đúng như lời của ông Phạm Văn Thực, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Agribank (lúc đó được gọi là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam): “Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã cứu bà con nông dân và bà con nông dân cũng đã cứu Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam”.

 

Trước những chặng đường mới của nông nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung, Agribank vẫn luôn đồng hành cùng Tam nông. Đặc biệt, trước những yêu cầu và thách thức đặt ra cho ngành nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TW (Nghị quyết 26) ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đặt ra những mục tiêu cụ thể về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến 2020. 
 

Thực hiện Nghị quyết 26, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 24/2008/NQ-CP kèm theo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Tam nông, trong đó có đề án về tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, bao gồm cả hoạt động tài chính ở quy mô nhỏ. Đây cũng chính là tiền đề để Nghị định số 41/2010/NĐ-CP (Nghị định 41) về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn được Chính phủ ban hành vào năm 2010 mà Agribank là ngân hàng hàng đầu thực hiện hiệu quả Nghị định này. 
 

Với sự “cởi trói” và khơi thông nguồn vốn về nông thôn của Nghị định 41, chỉ riêng năm 2010, ngoài việc dành vốn giải ngân nhằm triển khai Nghị định 41, Agribank đã đầu tư hơn 26.000 tỷ đồng cho vay hộ gia đình sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tạo cú hích mạnh mẽ cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. 
 

Kết thúc năm 2017, Tổng tài sản của Agribank đạt gần 1 triệu 200 ngàn tỷ đồng. Nguồn vốn huy động đạt gần 1 triệu 100 ngàn tỷ đồng (chủ yếu là vốn huy động từ dân cư). Dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 17,6% so với năm 2016, đạt gần 900 ngàn tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn đạt 650 ngàn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 73,6% dư nợ. Chất lượng tín dụng được đảm bảo, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,54%. Lợi nhuận trước thuế  tăng 20% (đạt 5.018 tỷ đồng cao nhất từ trước đến nay). Nộp ngân sách Nhà nước 1.200 tỷ đồng…

 

Cho vay hộ sản xuất - hướng đi đúng

 

“Agribank là một trong số các định chế tài chính thành công và hiệu quả nhất trên thế giới xét về khía cạnh chi phí hoạt động thấp và khả năng tiếp cận các hộ gia đình nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ”. Đánh giá này của Ngân hàng Thế giới (WB) được đưa ra năm 2011 là năm Agribank đầu tư cho "Tam nông" đạt mốc 300.000 tỷ đồng, dẫn đầu các tổ chức tín dụng trong việc cho vay thí điểm xây dựng nông thôn mới. Song cũng có thể coi đây là đánh giá xuyên suốt 30 năm hoạt động của Agribank với những thành tựu trong hoạt động tín dụng phục vụ nông nghiệp đã làm cho kinh tế hộ tăng trưởng mạnh, xoá đói giảm nghèo hiệu quả và được thế giới ghi nhận.

 

Để có được ghi nhận thành công và hiệu quả nhất trên thế giới ở khía cạnh khả năng tiếp cận các hộ gia đình nông thôn chính là thành quả của chương trình tín dụng hộ - hướng đi thành công nhất và cũng là con đường tạo dấu ấn và bản sắc riêng có, sâu đậm nhất của Agribank trên thị trường tài chính tín dụng ngày càng “trăm hoa đua nở” hiện nay.

 

Bước vào cuộc chiến trên thương trường với hành trang là nguồn vốn ít ỏi trước cảnh “nhà nghèo đông con”, Agribank lúc đó đứng trước lựa chọn sống còn là tiếp tục hoặc phá sản. Nhận thấy tiềm năng của thị trường tín dụng nông thôn, Ngân hàng đã xác định cho mình một lối đi riêng là gắn bó chặt chẽ với thị trường nông thôn, với sản xuất nông nghiệp và nông dân. Đây là thị trường mà các ngân hàng khác không có ý định tiếp cận do chi phí cao, quản lý khó mà lợi nhuận thấp. Mặc dù vậy, Agribank đã mạnh dạn chuyển hướng kinh doanh và đổi mới cơ cấu đầu tư vốn, từ quốc doanh là chủ yếu sang tập trung vào các hộ sản xuất cá thể với kim chỉ nam hoạt động “nông thôn là thị trường, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chính”.

 

Nhằm quản lý hiệu quả và đảm bảo chất lượng tín dụng hộ, Agribank đã có sáng kiến thành lập các tổ liên danh vay vốn tại thôn, bản - mỗi tổ gồm 10-15 hộ có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất. Hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất còn được mở rộng theo các chương trình và dự án phát triển sản xuất, kinh doanh nông, lâm, ngư, diêm nghiệp,đồng thời đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp thu mua hàng hóa nông, lâm, thủy hải sản. Cuối năm 1990, dư nợ tư doanh và cá thể (bao gồm một phần hộ nông dân ở một số chi nhánh thí điểm) của Agribank mới chỉ ở mức 103 tỷ đồng (chiếm 7,4% tổng dư nợ), chỉ sau một năm (cuối năm 1991) con số này đã tăng gấp 2,5 lần, với quy mô 259 tỷ đồng và 558 nghìn hộ nông dân được vay vốn.

 

Từ thành công trong cho vay hộ nông dân, ngày 28/6/1991, Chính phủ đã chính thức có chỉ đạo về việc làm thử cho vay vốn đến hộ sản xuất thông qua Chỉ thị 202-CT. Ngay sau đó, Tổng Giám đốc Agribank cũng đã ban hành văn bản 499/NHNo ngày 23/7/1991 về việc cho vay hộ nông dân như một sự cam kết luôn tiên phong và gắn bó với nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

 

Để nguồn vốn của ngân hàng tiếp tục đến được với nhiều hộ dân hơn nữa, nhiều biện pháp mới đã được thực hiện, như mở rộng mạng lưới giao dịch (bình quân cứ 2-3 xã lại có một ngân hàng lưu động) và áp dụng các biện pháp huy động vốn (như củng cố chất lượng các ngân hàng loại IV, tăng thời gian giao dịch với khách hàng, giao khoán chỉ tiêu huy động vốn cho chi nhánh cơ sở..., thời điểm đó, Agribank đã xây dựng và thực hiện chiến lược “xã hội hoá ngân hàng” để chiếm lĩnh thị phần và tăng tốc trong cho vay hộ. 
 

Hệ thống Phòng giao dịch, mạng lưới chi nhánh của ngân hàng đã vươn rộng đến tận cấp xã. Đến nay, Agribank hiện có gần 2.300 chi nhánh, phòng giao dịch; là đối tác tin cậy của trên 30.000 doanh nghiệp, hàng triệu hộ sản xuất. Đặc biệt Agribank đã phát triển mô hình ngân hàng lưu động với gần 800 xe ô tô chuyên dùng.

 

Hoạt động tín dụng hộ và tín dụng vi mô của Agribank góp phần không nhỏ trong việc thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam. “Những cánh tay nối dài” của Agribank đã góp phần tạo nên thành tựu kinh tế- xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là giảm tỷ lệ đói nghèo, đặc biệt là đã phân bố được thành quả của công cuộc đổi mới ở Việt Nam đồng đều và sâu rộng cho tất cả các tầng lớp dân cư, các vùng lãnh thổ, kể cả vùng núi cao và hải đảo - nơi mà đói nghèo ngự trị tưởng chừng như vĩnh viễn. Bằng việc trao niềm tin và gieo đồng vốn để những đối tượng yếu thế nhất trong xã hội có thể đầu tư công sức của mình cho đến ngày cả họ và ngân hàng cùng gặt hái thành quả đã giúp Agribank chiếm trọn được cảm tình và lòng tin của người dân nông thôn...

 

Tầm nhìn mới

 

Trải qua gần 30 năm hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vì “Tam nông”, Agribank được Đảng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Lao động, Sao Vàng đất Việt, Doanh nghiệp phát triển bền vững, Ngân hàng thương mại duy nhất 5 năm liên tiếp nằm trong Top 10 Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500); được Đảng, Chính phủ ghi nhận là Doanh nghiệp có thành tích xuất sắc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong thời kỳ đổi mới, Doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và phát triển cộng đồng, Ngân hàng Vì cộng đồng…

 

Tháng 6/2017, Agribank được tổ chức xếp hạng thế giới Fitch Ratings nâng triển vọng Xếp hạng Nhà phát hành nợ dài hạn của Agribank lên mức “Tích cực” từ “Ổn định”; Ngày 27/02/2018, tổ chức tín nhiệm Fitch Ratings đã tiếp tục xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn của Agribank ở mức B+ với triển vọng “Tích cực”, sàn xếp hạng hỗ trợ ở mức “B+”. Tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu các NHTM trong Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2016 (VNR 500) và được trao tặng giải thưởng Thương hiệu mạnh Việt Nam 2016.

 

Năm 2018 là năm ghi dấu chặng đường 30 năm xây dựng và trưởng thành của Agribank, cũng là năm có ý nghĩa quan trọng trong lộ trình thực hiện Đề án chiến lược kinh doanh giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và chuẩn bị cho Agribank cổ phần hóa khi đủ điều kiện theo chỉ đạo của Chính phủ. Trước bối cảnh thế giới - thời đại đã thay đổi về cấu trúc, về nội dung, về tốc độ… đây là tiền đề quan trọng để Agribank hướng tới tương lai, xác định tầm nhìn mới để thực hiện chiến lược phát triển của mình.

 

Mục tiêu phát triển của Agribank là tiếp tục nỗ lực tiên phong và giữ vị thế dẫn đầu, cạnh tranh tốt hơn, hội nhập quốc tế tích cực hơn để phục vụ nền kinh tế, phục vụ thị trường hiệu quả hơn và phải tiến lên trên mọi phương diện. Với sứ mệnh là ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu Việt Nam giữ vai trò chủ lực trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam và tầm nhìn phát triển theo hướng ngân hàng hiện đại “tăng trưởng - an toàn - hiệu quả - bền vững”, khẳng định vai trò chủ lực trong đầu tư tín dụng phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn; đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, Agribank hướng tới trở thành một ngân hàng đa dạng hóa hoạt động, một tập đoàn tài chính hiện đại, vươn lên “top” đầu khu vực và có thứ hạng trong hệ thống tài chính toàn cầu trong cấu trúc hợp tác và liên kết phát triển toàn cầu.

 

Phát huy truyền thống và thành tựu của bề dày lịch sử 30 năm xây dựng và trưởng thành, với tinh thần, quyết tâm chính trị đã được tôi luyện trong những chặng đường gian khó, Agribank sẽ tiếp tục viết thêm những trang sử vẻ vang, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra và tiếp tục đồng hành cùng Tam nông, lớn mạnh cùng kinh tế đất nước.

 

Nguồn Báo Chính phủ


| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang