Thứ Sáu, 19/04/2024 13:39:42 GMT+7

Tin đăng lúc 23-01-2016

Lượt xem: 3900

Thảo luận sôi nổi các vấn đề hội nhập, kinh tế

Sáng nay (23/1/2016), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng làm việc tại Hội trường để tiếp tục thảo luận các văn kiện Đại hội XII. Phóng viên Báo Công Thương đã lược ghi tham luận của một số đại biểu về các vấn đề hội nhập, kinh tế.
Thảo luận sôi nổi các vấn đề hội nhập, kinh tế
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tham luận tại Đại hội

Đưa quá trình hội nhập quốc tế vào chiều sâu

 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã tham luận về chủ đề “Đưa quá trình hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam”. 

 

Trong tham luận của mình, Phó Thủ tướng nêu rõ: 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình khu vực, thế giới có nhiều biến động rất phức tạp, khó lường tác động tới an ninh và phát triển của đất nước, công tác đối ngoại đã được triển khai chủ động, đồng bộ, huy động được sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc triển khai thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

 

Phân tích bối cảnh tình hình thế giới và trong nước giai đoạn tới, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc là định hướng chiến lược lớn của Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 5 năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN, của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập, để hội nhập quốc tế thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu phục vụ phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc. 

 

Với nước ta, trong 5-10 năm tới, chiều sâu của hội nhập quốc tế được thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Riêng về kinh tế, 5 năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Do vậy, đưa hội nhập đi vào chiều sâu tức là phải tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp Việt Nam; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu; tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế trước những tác động từ bên ngoài; đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển nội lực và liên kết vùng trong cả nước. Đưa hội nhập kinh tế quốc tế đi vào chiều sâu cũng có nghĩa là phải tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài. 

 

Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Dự thảo văn kiện Đại hội, đối ngoại cần tập trung làm tốt các công việc sau: Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương. 

 

Toàn cảnh Đại hội

 

Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

 

Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.

 

Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao trong ASEAN.

 

Phát triển công nghiệp quốc gia: 5 giải pháp chủ yếu

 

Đồng chí Phạm Xuân Đương tham luận tại Đại hội

 

Trình bày tham luận “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016-2020”, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương Phạm Xuân Đương thông tin, qua 30 năm đổi mới, những thành tựu đạt được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại: Nền công nghiệp nước ta phát triển còn rất khiêm tốn. Cơ cấu ngành nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng cho yêu cầu của công nghiệp hóa, năng lực dự báo, tiếp cận thị trường, sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, tính tuân thủ hợp tác còn hạn chế. Chưa chú trọng tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, như công nghiệp chế tạo và công nghiệp vật liệu. Thị trường sản xuất công nghiệp còn hạn hẹp chưa gắn với thị trường khoa học công nghệ; thị trường sản xuất vật liệu chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu vẫn là nhập khẩu, phụ thuộc phần lớn vào các thị trường bên ngoài. Do vậy, chưa có nhiều sản phẩm chủ lực và sản phẩm cạnh tranh quốc gia, chưa tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất của khu vực và quốc tế; giá trị gia tăng hầu hết trong các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam đều chiếm tỷ trọng rất thấp; nguồn lực chưa được tập trung, thiếu những động lực cho công nghiệp quốc gia phát triển.

 

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên trước hết từ việc tổng kết lý luận, thực tiễn về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia; việc đánh giá, rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới chưa đồng bộ, kịp thời trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

 

Đồng chí Phạm Xuân Đương khẳng định, định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân để phát triển đất nước và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với những quan điểm, mục tiêu cụ thể. Ban Kinh tế Trung ương đã nghiên cứu một số định hướng chính sách lớn về phát triển công nghiệp quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2035. Theo đó, một số giải pháp chủ yếu: Một là, cần phát huy, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về tài nguyên, lợi thế so sánh và con người để nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh tích lũy nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc gia. Nâng cao năng lực tiếp cận, phát triển các yếu tố nguồn lực và thị trường, trong đó tập trung vào phát triển tiếp cận vốn và thị trường tài chính; lao động và thị trường lao động; khoa học công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng; tăng cường liên kết, hợp tác và kết nối thị trường giữa các ngành kinh tế, chủ thể kinh tế, không gian kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế. Phân bổ nguồn lực hợp lý giữa phát triển công nghiệp với đô thị hóa gắn liền với phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Hình thành một số tập đoàn công nghiệp mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp.

 

Hai là, tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động quốc gia và đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo. Tăng cường kết nối khu vực và coi trọng các giải pháp phát triển bền vững theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc.

 

Ba là, tiến hành phân loại các nhóm chính sách công nghiệp quốc gia để hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp và đồng bộ, nhất là nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp nền tảng, nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, các ngành công nghiệp vật liệu, vật liệu mới, công nghiệp số và công nghiệp phần mềm.

 

Bốn là, đẩy mạnh đầu tư phát triển khoa học công nghệ, gắn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật với sản xuất kinh doanh, với nhu cầu của thị trường. Chú trọng đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học công nghệ, thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ.

 

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức giáo dục và đào tạo; chú trọng đào tạo kỹ năng, văn hóa và tác phong công nghiệp.

 

Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa ngành 

 

Đồng chí Phạm S tham luận tại Đại hội

 

Tham luận về vấn đề "Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng" của đồng chí Phạm S - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng - nhấn mạnh: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ và giải pháp hết sức quan trọng, cần thiết với một số định hướng cơ bản như: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp và các quy hoạch chuyên ngành theo hướng đa ngành gồm: tổ chức lại sản xuất, tập trung phát triển các cây trồng, vật nuôi có lợi thế cạnh tranh của địa phương để hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn...

 

Trước mắt, tập trung xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao, Khu công nghiệp - nông nghiệp, Trung tâm sau thu hoạch và Trung tâm giao dịch hoa với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản và một số nước tiên tiến để hình thành những cụm sản xuất đạt chất lượng, tiêu chuẩn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng theo quy hoạch; thu hút các nguồn lực đầu tư thông qua các nguồn vốn ODA, vốn đầu tư FDI để đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Chủ động lựa chọn, áp dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới theo phương thức đi tắt, đón đầu, đặc biệt là công nghệ giống, công nghệ tự động hóa, tin học hóa, công nghệ sau thu hoạch... Cùng với đào tạo các chuyên gia đầu ngành, đào tạo các nhà quản trị giỏi của ngành nông nghiệp, cần tiếp tục thực hiện mô hình đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật, tay nghề cho nông dân theo hình thức vừa học vừa làm tại các nước có nền nông nghiệp tiên tiến; phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới, liên kết sản xuất giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất - tiêu thụ nông sản an toàn với sự tham gia của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp lớn trong nước và người nông dân là chủ thể trực tiếp thực hiện. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, quản lý chất lượng nông sản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đẩy mạnh việc áp dụng các quy chuẩn trong sản xuất như VietGAP, GlobalGAP, HACCP..., nhằm nâng cao chất lượng nông sản đạt tiêu chuẩn, chất lượng, là cơ sở để phát triển thị trường xuất khẩu.

 

Đại hội nghe nhiều bài tham luận về các vấn đề hội nhập, kinh tế

 

Để thực hiện có hiệu quả những định hướng, giải pháp nêu trên, tỉnh Lâm Đồng kiến nghị Trung ương tiếp tục có những cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp hợp tác, gắn bó hơn nữa với nông dân. Nhà nước bố trí vốn trung hạn để triển khai khu nông nghiệp công nghệ cao của các tỉnh, thành nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng theo Quyết định số 575/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; có cơ chế và chiến lược hỗ trợ các địa phương, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng, phát triển thương hiệu nông sản tại thị trường trong nước và quốc tế; có chính sách bảo vệ hàng nông sản của Việt Nam trước sự cạnh tranh của một số nông sản nước ngoài...

 

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương


| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang