1. Cung cấp đủ điện cho nền kinh tế và đời sống nhân dân với chất lượng ngày càng cao, hệ thống điện đã có dự phòng về nguồn phát
Trong giai đoạn 2011-2015, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ước đến cuối năm 2015, tổng công suất các nguồn điện trên toàn quốc là 38.800 MW, trong đó các nguồn điện do EVN sở hữu là 23.580 MW (chiếm 60,8% công suất đặt của hệ thống), tăng 1,8 lần so với năm 2010.
EVN hiện đang quản lý hệ thống lưới điện gồm trên 41.100 km đường dây 500-220-110 kV (tăng 1,5 lần so với năm 2010) và trên 440.000 km đường dây trung thế và hạ thế (tăng 1,2 lần so với năm 2010); tổng dung lượng trạm biến áp 500-220-110 kV tăng 1,8 lần so với năm 2010. Công tác điều hành cung ứng điện đã đáp ứng nhu cầu và mức tăng trưởng nhu cầu điện của nền kinh tế; huy động hợp lý các loại nguồn điện đạt hiệu quả kinh tế.
Tổng sản lượng điện sản xuất và mua trong 5 năm (2011-2015) là 668,5 tỉ kWh, tăng trưởng bình quân 10,37%/năm. Tổng sản lượng điện thương phẩm giai đoạn 2011-2015 là 587,5 tỉ kWh, tăng trưởng bình quân 10,84%/năm. Riêng năm 2015, sản lượng điện thương phẩm đạt 143,34 tỉ kWh. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm nội địa so với với tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 là 1,85 lần.
2. Hoàn thành vượt kế hoạch giá trị khối lượng thực hiện đầu tư xây dựng
Giai đoạn 2011-2015, EVN đã thực hiện khối lượng lớn đầu tư nguồn và lưới điện, hoàn thành được nhiều dự án, tăng cường năng lực cung cấp điện của hệ thống điện quốc gia, đảm bảo cấp điện cho miền Nam, thủ đô Hà Nội và các vùng kinh tế trọng điểm. Đây cũng là thời kỳ có khối lượng và tốc độ đầu tư lớn nhất trong quá trình phát triển của EVN, đứng thứ 3 trong các nước ASEAN và thứ 31 thế giới.
Về nguồn điện, giai đoạn 2011-2015, EVN đã hoàn thành đưa vào phát điện 34 tổ máy thuộc 17 dự án với tổng công suất 9.852 MW, bằng 125% so với Quy hoạch điện VII được duyệt.
Về lưới điện, trong giai đoạn 2011-2015, EVN hoàn thành đóng điện 885 công trình lưới điện từ 110-500kV với tổng chiều dài đường dây trên 12.500km và tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm gần 60.000 MVA.
Giai đoạn 2011-2015, giá trị khối lượng thực hiện vốn đầu tư của EVN ước đạt 487.220 tỉ đồng, bằng 2,4 lần so với giai đoạn 2006-2010. Tiếp tục dẫn đầu cả nước về tốc độ và quy mô đầu tư.
3. Hoàn thành vượt mức về đầu tư lưới điện quốc gia cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo
Chương trình đầu tư đưa điện về nông thôn, miền núi và hải đảo đã được EVN hoàn thành vượt kế hoạch.Tính đến cuối năm 2015, cả nước có 100% số huyện có điện lưới và điện tại chỗ; 99,8% số xã với 98,76% số hộ dân nông thôn có điện lưới, vượt 0,76% so với chỉ tiêu được giao cuối năm 2015. Tại các vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hầu hết nhân dân ở các khu vực này đã được sử dụng điện: Khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc đạt 96,62% về số xã và 83,76% số hộ dân nông thôn có điện; khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 99,83% và 95,8%; khu vực Tây Nam bộ là 98,85% và 97,27%.
4. Công tác kinh doanh, dịch vụ khách hàng đạt được những bước tiến đáng kể, chỉ số tiếp cận điện năng và các chỉ số độ tin cậy cung cấp điện được cải thiện rõ rệt
Hiện nay, tổng số khách hàng mua điện trực tiếp của EVN đạt 23,7 triệu khách hàng tăng 31% so với năm 2010. Theo đó, công tác kinh doanh dịch vụ khách hàng cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Điểm bình quân đánh giá mức độ hài lòng khách hàng sử dụng điện toàn Tập đoàn do đơn vị tư vấn độc lập thực hiện điều tra tăng hàng năm và đạt 7,5/10 vào năm 2015.
Một trong những nội dung quan trọng được sửa đổi là việc tiếp tục rút ngắn thời gian các bước thực hiện của ngành điện để cấp điện cho các khách hàng đấu nối vào lưới điện trung áp xuống còn không quá 10 ngày (trước đây thời gian thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của EVN là 38 ngày)
5. Hoàn thành công tác thoái giảm vốn tại các doanh nghiệp ngoài ngành nghề kinh doanh chính theo đúng chỉ đạo của Chính phủ
Tính đến cuối năm 2015, EVN đã thoái toàn bộ vốn ở 4 doanh nghiệp bất động sản (Công ty CP Đầu tư xây dựng điện lực Việt Nam, Công ty CP Bất động sản Sài Gòn Vina, Công ty CP Bất động sản Điện lực miền Trung, Công ty CP Chứng khoán An Bình) và Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank), Công ty CP Bảo hiểm Toàn cầu (GIC) theo đúng phê duyệt của Bộ Công Thương với hình thức thỏa thuận chuyển nhượng và đấu giá công khai với giá trị cổ phiếu bằng hoặc cao hơn mệnh giá; hoàn thành việc giảm vốn tại Công ty Tài chính cổ phần Điện lực (EVNFinance) xuống còn 15% vốn điều lệ của EVNFinance theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng.
Tổng giá trị thoái vốn, giảm vốn ngoài ngành nghề kinh doanh chính của EVN đạt 1.993,202 tỉ đồng, lãi gần 35 tỉ đồng.
6. Giảm tổn thất điện năng đạt kế hoạch Chính phủ giao
Sau 5 năm, tổn thất điện năng giảm được 2,15% từ 10,15% năm 2010 xuống còn 8,0% vào cuối năm 2015 bằng việc thực hiện nhiều giải pháp đột phá. Như vậy, tổn thất điện năng của EVN tương đương với tổn thất của các công ty điện lực cùng mô hình tổ chức ở các nước trong khu vực.
7. Sản lượng điện tiết kiệm hàng năm đạt từ 1,7-2,5% sản lượng điện thương phẩm
EVN và các đơn vị đã triển khai sâu rộng nhiều hoạt động tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả tại các địa phương với các dự án cụ thể để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.
Sản lượng điện tiết kiệm hàng năm đạt từ 1,7-2,5% sản lượng điện thương phẩm. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm nội địa so với với tốc độ tăng trưởng GDP của giai đoạn 2011-2015 là 1,84 lần so với 2,02 lần của giai đoạn 2006-2010, cho thấy tiêu dùng điện đã có chiều hướng hiệu quả hơn.
8. Triển khai tốt công tác trồng bù rừng các dự án thủy điện
Đến cuối năm 2015, trong tổng số 18 dự án thủy điện, đã có 3 dự án thủy điện ở khu vực miền Trung hoàn thành công tác trồng bù rừng và được cấp chứng nhận gồm: Thủy điện A Vương, sông Ba Hạ, Buôn Tua Srah; 15 dự án thủy điện còn lại đã được địa phương phê duyệt phương án trồng bù rừng thay thế và đã hoàn thành chuyển tiền cho địa phương để trồng và chăm sóc năm đầu.
Ngoài việc chi hàng nghìn tỷ đồng trồng bù rừng thay thế, EVN còn góp phần bảo vệ môi trường rừng ở 29 tỉnh nơi có dự án thủy điện của EVN thông qua việc nộp phí dịch vụ môi trường rừng hàng nghìn tỉ đồng mỗi năm (năm 2013 nộp 1.148 tỉ đồng, năm 2014: trên 1.192 tỉ đồng và năm 2015: ước tính hơn 4.067 tỉ đồng).
9. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống điện
Một số thành tựu tiêu biểu đó là: Tự thiết kế và xây dựng thành công Nhà máy Thủy điện Sơn La; chế tạo thành công máy biến áp 500 kV; đưa vào vận hành các tổ máy nhiệt điện than phun 622 MW (tại nhà máy Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân 2); nâng cao thông số nhiệt độ, áp suất, để giảm hàm lượng phát thải cacbon và tăng hiệu suất chu trình (các nhà máy Duyên Hải 1, Uông Bí MR 2, Quảng Ninh 2, Hải Phòng 2...); sử dụng công nghệ lò tầng sôi hiện đại tại nhiệt điện Mông Dương 1; đưa vào vận hành công trình thủy điện ngầm đầu tiên do Việt Nam tự thiết kế, thi công (Thủy điện Huội Quảng).
Lưới điện truyền tải và phân phối được đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng, như: Ứng dụng thiết bị điện tử công suất (SVC); áp dụng công nghệ chẩn đoán trạng thái thiết bị: kiểm tra phóng điện cục bộ MBA 220-500 kV; giám sát dầu online tại trạm biến áp 500 kV; vệ sinh cách điện trên lưới điện đang mang điện bằng nước áp lực cao; sửa chữa lưới điện không cần cắt điện...
10. Công tác an sinh xã hội được thực hiện đồng bộ với qui mô lớn và đem lại hiệu quả thiết thực
Trong 5 năm qua, EVN đã thực hiện tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn tại gần 1.370 xã với trên 1,97 triệu hộ dân nông thôn, đem lại lợi ích thiết thực do được sử dụng điện đúng mức giá theo quy định của Chính phủ.
Cùng với đó, Tập đoàn đã hoàn thành các chương trình hỗ trợ 3 huyện nghèo Tân Uyên, Than Uyên và Phong Thổ tỉnh Lai Châu giai đoạn 2009-2015, tổng giá trị thực hiện là 575 tỉ đồng, về cấp điện đã nâng tỉ lệ số hộ dân có điện tại 3 huyện từ 40% năm 2011 lên 90% cuối năm 2015.
Trong giai đoạn từ 2011-2015, EVN đã hỗ trợ thêm gần 900 tỉ đồng cho công tác di dân tái định cư tại các dự án nguồn điện.
Nguồn: Chinhphu.vn