Nặng tình với quê là tình cảm, là tâm lý phổ biến ở những người có tuổi. Ngoài một số ít người ra đi từ ruộng đồng sau này thành ông trạng áo dài, sống ly quê, thấy mình gắn bó với thị thành hơn là máu thịt với nơi chôn nhau cắt rốn, đa phần những người có gốc gác “nhà quê” thường mang cảm giác như “cá về với nước”, hay những gia đình Hà Nội lũ lượt về quê đón Tết, khiến 36 phố phường luôn đông đúc, ngột ngạt, đường tắc… bỗng hóa thành thênh thang, tạnh vắng vào mỗi dịp Tết đến, Xuân về. Đúng là “về” chứ nhất quyết không phải “đi”. Không đi đâu bằng về quê. Lâu nay, thực tế đã minh chứng trong số những người sống ở Hà Nội đi ăn tết và chơi tết nơi khác đang gia tăng, những gia đình chọn “đi” thay vì “về”, hầu hết là những gia đình trẻ, gia đình trung lưu, gia đình không đặt nặng đạo lý truyền thống… Cuộc sống hiện đại với những áp lực căng thẳng, ba ngày Tết là dịp để “xả hơi”, để “cân bằng”, để nạp lại “năng lượng”, để “bù đắp” những khiếm khuyết nghĩa tình, hay là để “thắp lửa”, để “cầu nguyện”… Ai và ở đâu đáp ứng những tiêu chí đó, ắt Tết sẽ được chọn. Về quê không còn là lựa chọn tối ưu, nhất là các bậc cha mẹ thời nay cũng “thoáng”, chiều và chịu “nương” theo con cái hơn. Trong khi con của họ, không phải ai cũng chịu giữ và thực hiện chữ hiếu một cách máy móc. Thế là ngày nay, “về quê” chỉ là một trong những phương án được “gạch đầu dòng” để lựa chọn trong các dịp nghỉ lễ, tết, thay vì là phương án duy nhất “số 1” với một số gia đình. Dù vậy, “Tết là về” - về quê, ngoài chuyện đạo lý, phong cách sống, còn là nhu cầu tình cảm khó có thể thay khác đối với một số người. Tôi biết, có những gia đình con cái đã lớn, song cha mẹ họ vẫn coi Tết trong ngôi nhà của đấng sinh thành mới là Tết. Tết nào không về được ba mươi, mùng một, không được chạy chân đất nhà trên, nhà dưới dăm ba ngày, thấy mặt họ lộ rõ sự đăm chiêu. Cho dù Tết phố phường lắm lúc cũng tưng bừng, quà quê hơn cả ở quê.
Tết là ký ức về những mùa hoa đào năm xưa nở bung từng cánh mỏng trong tâm hồn của những người hoài cổ. Nói hoa đào là đào ta, hoa nhỏ, cánh đơn, màu hồng nhạt, nở lác đác sáng mùng một trong vườn, trước sân, khi những giọt sương năm mới còn đọng e ấp trên lá, trên cánh hoa, tuyệt nhiên không phải là đào bích, đào phai mà người Hà Nội vẫn cầu kỳ tuyển chọn. Vào những năm 70, miền Bắc còn nghèo lắm, vì thế Tết rất đơn sơ, không chỉ ở quê mà ở Hà Nội cũng vậy. Sau giải phóng miền Nam, không phải thắt lưng buộc bụng để gửi gạo ra chiến trường, nhưng góc bếp ngày Tết vẫn đơn sơ, kể cả những bữa tất niên chiều 30 hay bữa cỗ đầu năm mới… Còn khái niệm về tiệc tùng linh đình thì xa vời lắm, có chăng chỉ trên phim ảnh, chuyện kể. Song, không vì thế mà vơi đi cơn thèm khát được về với Tết quê của lũ con nít thời đó.
Phiên chợ quê ngày Tết
Về với Tết quê là về với căn bếp nghèo, với cây rơm cao vút ngày mùa cứ thấp dần sau mỗi lần mẹ cời than, đỏ lửa. Về với tiếng giã gạo khuya bùm bụp, về với đêm bánh chưng tưng bừng ngõ xóm, về với những đĩa xôi trắng nho nhỏ đơm lưng chừng (chỉ ngày giỗ, ngày Tết mới được thấy), chứ đâu đầy đặn, cao tú hụ như giờ đây. Để có những thứ đó, các thành viên trong gia đình phải bận rộn, cùng nhau “xắn tay”, mỗi người mỗi việc: Xay thóc nếp, sàng sẩy rồi mang ngâm từ tối hôm trước, rồi hì hục đặt chõ đồ xôi (bằng đất sét nung) lên bếp, dùng đất sét nhão đánh nhuyễn bịt vòng quanh chỗ tiếp xúc giữa nồi và chõ để hơi nước không thoát ra ngoài. Do nắp chõ cũng bằng đất nung không thể kín khít, nên để giữ hơi lại, các bà phải cẩn thận lót lá chuối non trước khi đậy vung. Phải bẻ cong mấy sợi lạt giang để sát xuống đáy (phía trong chõ), khi gạo nếp gặp hơi nước bốc lên và chín dần thì được xới lên bằng cách dùng hai tay nâng dần hai đầu những sợi lạt lên kéo theo những tảng xôi nghi ngút…Căn bếp bắt đầu có Tết sớm từ lúc xôi được dỡ ra rá, mùi thơm của xôi, của lửa, của lá chuối non hòa quyện, hấp dẫn, mời mọc. Nhưng xôi dẻo, xôi thơm đến độ nào thì chỉ có thể cảm nhận bằng mắt, bằng tay, bằng hít hà, tuyệt nhiên không được nếm, được thử khi các bậc cha chú chưa hoàn tất việc thắp hương khấn vái tổ tiên trước bàn thờ. Rồi ở đó còn là những đứa trẻ quê lau tau, thèm Tết, thèm xôi chẳng khác gì chúng tôi nghoẹo cổ nhìn như bị thôi miên vào đôi tay có “phép mầu” của các bà mà thấy việc đồ xôi thật quan trọng, trong mắt những đứa con gái mới lớn đi học i tờ còn óng ánh cái gọi là “ước mơ”: “Chắc chắn mai sau mình cũng có thể vào bếp đồ xôi được như các bà, các mẹ”.
Giờ đây, thi thoảng mới bắc bếp đồ xôi, ngày thường cứ năm ngàn, mười ngàn ra ngõ là có vô khối loại xôi để chọn: Nào là xôi ngô, xôi lạc, xôi đỗ, xôi xéo, xôi ruốc, xôi thịt, xôi trứng, xôi gà, xôi lạp xường, thôi thì đủ cả. Bánh chưng ăn quanh năm không phải đợi đến Tết mới được “lại gần”. Ký ức về những chõ xôi trắng bốc khói trong căn bếp tồi tàn ngày ấy vẫn mãi gắn liền với tuổi thơ tôi. Lạ lắm, đến tận giờ đây mỗi lần cầm trên tay những hạt nếp cái hoa vàng tròn mẩy đều tăm tắp, tôi vẫn không sao quên được những gương mặt chất phát, quê mùa ửng đỏ trong ánh lửa bập bùng, mà chỉ những người đàn bà thôn quê mới có, nhớ những đôi bàn tay miết lấy, miết để những vệt đất sét dẻo quánh quanh đáy chõ trên bếp. Tôi tin những ai đã từng được biết, được nếm trải những hạt xôi ở thập kỷ 70 sẽ không bao giờ quên Tết quê vì mùi xôi thơm ngào ngạt bay ra từ bếp. “Ai ơi bưng bát cơm đầy”, với tôi không phải là nỗi nhớ bát cơm ngày giáp hạt, bát cơm thủa ăn bo bo triền miên, mà là nhớ mâm xôi ngày tết ở quê - mâm xôi mà “Thằng Bờm có cái quạt mo”, có thể sẵn sàng đánh đổi hơn mọi thứ trên đời. Hay với bậc hoa niên “hôm nay”, hoa đào, bánh chưng pháo hồng và câu đối Tết trên giấy đỏ, đã mang đến cho Tết quê thêm phần rực rỡ lắm rồi… Ai còn nhớ và ai đã quên, điều ấy không quan trọng, vì Tết vẫn về bên ta như một lời hẹn thầm kín, tri kỷ, trung trinh, giữ cho ta ngọn lửa hồng ấm áp nơi góc bếp, giữ cho ta ngọn khói bếp trắng ngoằn ngoèo bay lượn trời chiều ba mươi, giữ cho ta giấc mơ áo mới, má hây hây đỏ sáng mùng một…
Có một thời để nhớ, một Tết để đợi, sao cứ để lại phố phường mà về quê, mà không nguôi nao nức mỗi độ Xuân sang. Bởi, “...Nơi bền lâu là nơi lắng sâu, là thiếu quê hương ta về, ta về đâu?…”.
Anh Thư