Đây là chương trình mới được triển khai thí điểm tại Việt Nam trong năm 2025 - 2026 do Chương trình đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) và đối tác đề xuất hỗ trợ.
Ông Hoàng Anh, thay mặt nhóm chuyên gia của RCEE-NIRAS, đơn vị hỗ trợ kỹ thuật của chương trình cho biết: để chống lại những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu cũng như thực hiện các mục tiêu giảm phát thải cần sự tham gia của nhiều bên liên quan. Trong đó, có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực dễ tổn thương hoặc đang chịu tác động bất lợi trong sự cạnh tranh của kinh tế thế giới, nhất là các cơ chế bảo hộ thương mại mới gần đây.
Việc quan trọng cần thực hiện là nâng cao năng lực cho các nhóm doanh nghiệp thông qua nhiều công cụ khác nhau. Một trong số đó là cơ chế dán nhãn carbon cho sản phẩm, hàng hoá. Cơ chế này đã được nhiều quốc gia, nền kinh tế áp dụng và đang thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
Từ năm 2006, sáng kiến dán nhãn carbon nội địa đầu tiên trên thế giới được Vương quốc Anh giới thiệu với tên gọi “nhãn giảm phát thải các-bon”. Đến nay, nhiều tiêu chuẩn công và tư đã xuất hiện ở cấp độ quốc tế, quốc gia ở một số nước phát triển và đang phát triển.
Dán nhãn carbon giúp tăng cường tính minh bạch về lượng phát thải sản phẩm và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Các tiêu chuẩn quốc tế như PAS 2050, ISO 14040 và 14044 đảm bảo tính tin cậy, nhất quán trong việc đánh giá dấu chân carbon.
Kinh nghiệm thực hiện từ nhiều nước cho thấy, quy định dán nhãn carbon tự nguyện được xây dựng phù hợp với ngành công nghiệp và mục tiêu môi trường của mỗi nước. Sự tham gia của các bên liên quan, bao gồm cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng để triển khai thành công. Chương trình dán nhãn sinh thái cân bằng cần cung cấp giá trị vượt trội hơn chi phí để đảm bảo sự tham gia lâu dài của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, theo ông Hoàng Anh, trong quy định pháp luật chưa có khung thể chế cho nhãn carbon. Việc triển khai chương trình dán nhãn carbon thí điểm dựa trên tinh thần tham gia tự nguyện góp phần nâng cao năng lực, gia tăng lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Trong hỗ trợ kỹ thuật, đơn vị thực hiện hướng tới việc xây dựng chính sách hỗ trợ khối tư nhân về năng lực kiểm kê, đánh giá và phát triển bền vững khác.
Các nhóm ngành ưu tiên lựa chọn tham gia thí điểm dựa trên những tiêu chí cơ bản được kế thừa từ những hoạt động nghiên cứu, các kinh nghiệm quốc tế và có sự tham vấn của các cơ quan chức năng, đơn vị có liên quan như Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)...
Dự kiến có 11 nhóm ngành hoặc tiểu ngành bị tác động bởi các cơ chế như CBAM; nhóm ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, phát thải lớn hoặc nhóm ngành đang bị tác động bởi chính sách chuyển dịch năng lượng được cân nhắc lựa chọn và đánh giá. Đó là các ngành như nhôm, đồ uống, xi măng, hoá chất, thiết bị điện và điện tử, điện lực, chế biến thực phẩm, sắt thép, giấy và bột giấy, nhựa, may mặc và dệt may.
Theo các chuyên gia của chương trình, những doanh nghiệp tham gia tự nguyện sẽ được hỗ trợ đánh giá, xây dựng báo cáo về phát thải hoặc dấu chân carbon với các sản phẩm. Chuyên gia tư vấn quốc tế xác nhận số liệu và đưa ra kết luận doanh nghiệp. Chương trình dán nhãn carbon tự nguyện cũng hướng đến mục tiêu đảm bảo doanh nghiệp không bị gánh nặng về giấy tờ, đảm bảo bảo mật dữ liệu, số liệu hoạt động của doanh nghiệp.
Về phía doanh nghiệp, tham gia chương trình sẽ được xác nhận dấu chân carbon trên các sản phẩm, đánh giá lượng giảm phát (nếu có) và các hoạt động hỗ trợ, khen thưởng...
Theo diendandoanhnghiep.vn