Những năm gần đây, ngành logistics Việt Nam đã phát triển nhanh, với mức tăng trưởng từ 13 - 15%/năm. Quá trình tham gia và thực thi các hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các đối tác, trong đó có Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã mang lại nhiều cơ hội về thu hút đầu tư, gia tăng nhu cầu vận chuyển…
Song, thực tế sau hơn 2 năm Hiệp định EVFTA có hiệu lực cũng cho thấy nhiều thách thức mà ngành logistics Việt Nam phải đối mặt.
Với tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu gần 700 tỷ USD, Việt Nam đã trở thành một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới vào năm 2021. Đồng thời, Việt Nam cũng đã vươn lên trở thành đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Liên minh châu Âu (EU) trong khu vực ASEAN và xếp trong Top 10 các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào thị trường EU.
Để đưa được những hàng hoá vào EU với chi phí hợp lý, giá thành và thời gian bảo đảm, đặc biệt là những mặt hàng có khối lượng vận chuyển lớn như hàng dệt may, da giày, thủy sản... có vai trò rất quan trọng của các doanh nghiệp dịch vụ logistics. Cùng với sự gia tăng thương mại Việt Nam - EU, việc tham gia Hiệp định EVFTA cũng mang lại nhiều cơ hội lớn cho lĩnh vực logistics.
Thống kê có ít nhất 5 cơ hội lớn của ngành logistics Việt Nam từ Hiệp định EVFTA, đó là: Cơ hội gia tăng khách hàng sử dụng dịch vụ logistics; cơ hội gia tăng các trung tâm logistics chất lượng cao từ các nhà đầu tư EU; cơ hội cho các doanh nghiệp logistics trong nước lập đối tác với các công ty của EU từ đó học kinh nghiệm và gia tăng cơ hội kinh doanh; cơ hội tham gia vào chuỗi dịch vụ của các công ty logistics EU và thậm chí có thể tham gia vào chuỗi giá trị của họ; Và thứ 5 là cơ hội để các doanh nghiệp logistics Việt Nam có thể liên kết với nhau, để tạo ra khả năng cung cấp dịch vụ đầy đủ hơn…
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương - đơn vị trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết Hiệp định EVFTA cũng chỉ ra 3 thách thức lớn đối với ngành logistics khi thực thi Hiệp định EVFT.
Theo ông Ngô Chung Khanh: "Thách thức đầu tiên là từ cạnh tranh, khi mở cửa thì các doanh nghiệp logistics EU sẽ vào, doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh. Hoặc ở những lĩnh vực theo lộ trình đã mở cửa 100% thì lúc này các doanh nghiệp EU không cần đến doanh nghiệp Việt Nam nữa mà thay vào đó họ sẽ tự làm, tức là cơ hội của doanh nghiệp logsitics trong nước tại một số dịch vụ sẽ bị mất đi.
Thách thức thứ hai, theo ông Khanh không chỉ là trong lĩnh vực logistics mà trong nhiều lĩnh vực, đó là doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh lẫn nhau, ví dụ như hiện tượng không chủ động tìm kiếm nguồn hàng mà cạnh tranh để giành nguồn hàng, dìm giá... để giành lấy các cơ hội từ EVFTA mang lại.
Thứ ba, cơ hội có nhưng có tận dụng được hay không, bởi doanh nghiệp logistics của chúng ta vẫn thiếu vốn, công nghệ cũng có hạn và đặc biệt là về nhân lực có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc theo nhu cầu mới hiện nay...".
Dưới góc độ doanh nghiệp xuất khẩu, ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng cho rằng: "Chi phí logistics chiếm tỷ lệ lớn trong cấu thành giá trị của sản phẩm xuất nhập khẩu. Có những thời điểm khó khăn như năm chi phí logistics đã tăng hàng chục lần, dẫn đến doanh nghiệp khó khăn trong việc cân đối chi phí trong sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa.
Đó là chưa kể doanh nghiệp như Sao Su Đà Nẵng còn phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe của các đối tác nước ngoài về quy định kho ngoại quan, đóng tàu hàng.. khi đạt được tất cả các tiêu chuẩn này của EU thì tất cả các thị trường đều có thể đạt được".
Theo ông Mai Trần Thuật - Giám đốc phụ trách Supply Chain Solutions, Bee Logistics Group thì “trong nguy có cơ”, thời điểm Hiệp định EVFTA có hiệu lực cùng thời điểm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp cũng đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam, đặc biệt là với xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng, nhiều doanh nghiệp EU đã quan tâm đầu tư vào Việt Nam.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của doanh nghiệp, ông Mai Trần Thuật cho rằng, doanh nghiệp logistisc cần phải chuẩn bị rất nhiều nguồn lực, từ nguồn lực tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực…
Ông Mai Trần Thuật cho biết: "Chúng tôi sẽ phải có những cải tiến về bản thân nội bộ trước, ví dụ như phải đầu tư rất nhiều tiền vào công nghệ, đưa những hệ thống tự động, công nghệ từ nước ngoài, rồi các phần mềm để đáp ứng được nhu cầu mà các Cty logistics của nước ngoài khi họ đầu tư vào đây.
Nếu họ muốn hợp tác, muốn liên kết với chúng tôi thì phải đáp ứng tất cả nhu cầu đó. Hai nữa là về quy trình nghiệp vụ chúng tôi cũng phải chuẩn hóa và đưa vào tất cả các quy trình đó phải tự động hóa, rồi nguồn vốn, những phần cơ sở vật chất hạ tầng...
Ví dụ với hệ thống của chúng tôi làm gom hàng cho các đối tác nước ngoài thì phải có một hệ thống kho lớn, có thể nằm trong khu công nghiệp, trong cụm cảng… đấy là những cái mà chúng tôi chuẩn bị về phía doanh nghiệp".
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cũng cho rằng, Việt Nam nên phát triển trung tâm logistics tại các cảng lớn để đảm bảo đáp ứng được lượng tàu vào/ra. Đồng thời, nên đầu tư vào các hãng tàu để chủ động được nguồn tàu hàng và quan tâm phát triển các "sếu đầu đàn" trong logistics.
Theo ông Hải: "Logistics là lĩnh vực có tiềm năng ứng dụng công nghệ hết sức to lớn. Đấy cũng là một chìa khóa để giúp cho doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao được hiệu quả và tăng sức cạnh tranh.
Trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp như vậy, sự cạnh tranh mạnh mẽ như vậy, doanh nghiệp nào dựa được vào công nghệ, ứng dụng được công nghệ tốt thì đấy là những doanh nghiệp sẽ có khả năng vượt trội và vươn xa hơn…
Còn về phía Nhà nước thì sắp tới thì Bộ Công Thương sẽ triển khai xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics với tầm vóc dài hạn hơn so với kế hoạch hành động trước đây nhằm đạt được cơ sở nền móng hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics trong thời gian tới, đồng hành với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thị trường thế giới tốt hơn nữa…".
Theo ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cần quan tâm đến chính sách tín dụng dành cho các doanh nghiệp tận dụng các FTA nói chung, trong đó có hiệp định EVFTA. Cùng với sự chủ động đi trước đón đầu và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, rất cần sự trợ lực đòn bẩy từ cơ chế, chính sách để doanh nghiệp logistics Việt Nam phát triển và tận dụng tốt hơn các cơ hội mà Hiệp định EVFTA mang lại./.
Theo Vov.vn