Cân bằng lợi ích cho các thành viên
Được ký kết vào ngày 15/11/2020 và có hiệu lực chính thức từ ngày 1/1/2022, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là hiệp định thương mại tự do được 10 nước thành viên ASEAN và 5 nước đối tác của ASEAN là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia và New Zealand. Đây là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng lợi ích cho các thành viên tham gia.
Khối các nước RCEP sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm 30% dân số thế giới với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Hiệp định RCEP có 20 Chương và các Phụ lục, bao gồm các quy định và cam kết cụ thể các Chương về Tự do hóa thương mại hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, phòng vệ thương mại, thương mại dịch vụ, di chuyển thể nhân, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, cạnh tranh, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Ngay sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, các nước thành viên sẽ có nhiều cơ hội mới khi tham gia vào thị trường thương mại, đầu tư rộng lớn hơn. Đối với Việt Nam, RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia các chuỗi giá trị mới trong khu vực, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Thậm chí, với hiệp định này, Việt Nam và các nước ASEAN hoàn toàn có cơ hội để trở thành trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, thách thức sẽ lớn hơn khi các các bên tham gia thị trường phải cạnh tranh với những đối tác có cơ cấu sản phẩm tương tự và mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn. Đặc biệt, RCEP có thể mang tới những sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ bên ngoài.
Cam kết trong RCEP cũng sẽ làm giảm thuế quan của nhiều nước trong khối đối với hàng hóa Trung Quốc. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải cạnh tranh trong nước với một loạt hàng hóa mới có giá thành thấp hơn từ Trung Quốc.
Cam kết về cạnh tranh trong Hiệp định RCEP
Để đảm bảo thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế và phúc lợi của người tiêu dùng trong khu vực, Hiệp định RCEP đã có những quy định, nghĩa vụ riêng về cạnh tranh tại Chương 13 của Hiệp định.
Tương tự các FTA thế hệ mới khác, Chương Cạnh tranh (Chương 13) của Hiệp định RCEP được Việt Nam đàm phán trên cơ sở pháp luật cạnh tranh hiện hành và các pháp luật khác có liên quan. Do vậy, việc thực hiện các cam kết của Chương Cạnh tranh mang tính khả thi cao và cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh tại thị trường Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước cũng như khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Theo đó, Chương Cạnh tranh Hiệp định RCEP gồm 9 điều khoản và 4 phụ lục áp dụng loại trừ Điều 13.3 (các biện pháp thích hợp chống lại các hoạt động phản cạnh tranh) và Điều 14 (Hợp tác) của Chương Cạnh tranh đối với Brunei Darussalam, Campuchia, Lào và Myanmar.
Mục tiêu Chương Cạnh tranh nhằm thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế và phúc lợi của người tiêu dùng thông qua áp dụng, duy trì các luật và quy định để ngăn chặn các hoạt động phản cạnh tranh; cũng như hợp tác khu vực về xây dựng và thực hiện các luật và quy định về cạnh tranh giữa các bên. Việc đề ra những mục tiêu này nhằm đảm bảo lợi ích của các bên tham gia hiệp định, bao gồm tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa các bên.
Các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh: Quy định mỗi nước thành viên phải thực thi nội dung Chương Cạnh tranh nhất quán với mục tiêu của Chương. Các bên thừa nhận quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong chương này. Đó là quyền chủ quyền của mỗi bên trong việc phát triển, thiết lập, quản lý và thực thi luật, quy định và chính sách cạnh tranh; sự khác biệt đáng kể giữa các bên về năng lực và trình độ phát triển trong lĩnh vực luật và chính sách cạnh tranh.
Quy định về các biện pháp thích hợp chống lại hoạt động phản cạnh tranh: Các nước thành viên RCEP phải thông qua hoặc duy trì các luật và quy định về cạnh tranh để ngăn chặn các hoạt động phản cạnh tranh và phải thực thi các luật và quy định đó một cách phù hợp; phải thiết lập hoặc duy trì một hoặc các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện hiệu quả các luật và quy định về cạnh tranh.
Trong quá trình thực thi luật và cơ quan cạnh tranh, các nước thành viên phải đảm bảo tính độc lập trong việc ra quyết định của một hoặc các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc thực thi luật và quy định cạnh tranh. Việc thực thi các quy định pháp luật cạnh tranh tuân theo nguyên tắc không phân biệt đối xử theo quốc gia, áp dụng đối với tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại không phụ thuộc và quyền sở hữu của họ.
Các điều khoản về hợp tác: Các nước thành viên RCEP thừa nhận tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các cơ quan cạnh tranh nhằm thúc đẩy thực thi pháp luật cạnh tranh hiệu quả. Theo đó, cơ quan cạnh tranh trong nguồn lực sẵn có, có thể hợp tác thông qua các hình thức như thông báo, trao đổi thông tin phối hợp trong thực thi.
Quy định về bảo mật thông tin: Chương Cạnh tranh không yêu cầu một nước thành viên RCEP chia sẻ thông tin trái với luật, quy định và lợi ích quan trọng của bên đó. Khi một bên yêu cầu thông tin mật theo chương này, bên yêu cầu phải thông báo cho bên được yêu cầu đầy đủ thông tin về mục đích, dự tính sử dụng và các quy định có thể ảnh hưởng tới tính bảo mật của thông tin.
Hợp tác kĩ thuật và nâng cao năng lực: Nhằm xây dựng năng lực cần thiết để tăng cường phát triển chính sách cạnh tranh, các nước thành viên RCEP có thể hợp tác, đa phương hoặc song phương dựa trên nguồn lực sẵn có. Các hoạt động hợp tác gồm: Chia sẻ kinh nghiệm liên quan và thông tin ngoài thông tin mật về xây dựng và thực hiện chính sách và luật cạnh tranh, trao đổi chuyên gia về luật và chính sách cạnh tranh, trao đổi về cán bộ cơ quan cạnh tranh vì mục đích đào tạo…
Quy định về bảo vệ người tiêu dùng: Các nước RCEP công nhận tầm quan trọng của luật bảo vệ người tiêu dùng và việc thực thi luật đó cũng như sự hợp tác giữa các bên về các vấn đề liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng nhằm đạt được các mục tiêu của Chương này. Mỗi bên sẽ thông qua hoặc duy trì các luật hoặc quy định để cấm việc sử dụng trong thương mại các hành vi gây hiểu lầm, hoặc mô tả sai lệch hoặc gây hiểu lầm.
Điều khoản giải quyết tranh chấp: Các nước thành viên không yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với bất kỳ vấn đề nào phát sinh trong Chương Cạnh tranh.
Theo Congthuong.vn