Với việc vượt qua những tác động không nhỏ bởi dịch bệnh để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế bằng các quyết sách, hành động quyết liệt, sáng tạo, đem lại con số tăng trưởng xuất khẩu cao, đảm bảo sản xuất và lưu thông hàng hóa, ngành Công Thương đã có sự khởi đầu khá vững vàng cho một giai đoạn phát triển mới mà ở đó, tinh thần khơi nguồn nội lực sẽ là mục tiêu xuyên suốt. Đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương trao đổi với phóng viên Báo Công Thương về những kết quả của năm 2021 và nhiệm vụ đặt ra cho năm 2022.
I. Xuất khẩu tiếp tục tạo “kỳ tích”
Năm 2021, xuất nhập khẩu cả nước đạt kỷ lục gần 670 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Bộ trưởng có thể chia sẻ cụ thể về những kết quả đáng ghi nhận này, cũng như những giải pháp mà Bộ Công Thương đã triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đưa xuất nhập khẩu về đích với con số rất khả quan như vậy?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
2021 là một năm đầy khó khăn đối với mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam nói chung và các hoạt động xuất khẩu, xúc tiến xuất khẩu nói riêng do tác động nghiêm trọng, chưa từng có của đại dịch Covid-19. Nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất, kinh doanh để thực hiện các biện pháp chống dịch, trong đó chịu ảnh hưởng nặng nề là khối doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Trước bối cảnh hết sức khó khăn đó, sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc kịp thời, hiệu quả của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến thương mại đã nỗ lực vượt bậc, triển khai đồng bộ, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả nhiều giải pháp với nhiều cách làm hay, sáng tạo, giúp duy trì các hoạt động sản xuất và xuất khẩu, đóng góp tích cực vào kết quả ấn tượng của hoạt động xuất nhập khẩu trong năm 2021.
Tính đến ngày 31/12/2021, kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm ước đạt gần 670 tỷ USD, tăng gần 23% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng trên 19%, xuất siêu được duy trì năm thứ 6 liên tiếp với mức thặng dư 4 tỷ USD. Kết quả tăng trưởng này cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 4-5% được Chính phủ giao hồi đầu năm cho ngành Công Thương, bất chấp những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.
Quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Năm 2021, 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu “tỷ đô”, tăng 1 mặt hàng so với năm 2020 (8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2020). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực. Cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực của tăng trưởng khi chiếm tới 86,7% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Nhiều nhóm hàng tăng trưởng cao như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (tăng 14,4%), máy móc, thiết bị phụ tùng (tăng 41%), gỗ và sản phẩm gỗ (tăng 19,7%), sắt thép các loại (tăng 123,4%). Bên cạnh đó, dù chỉ chiếm chưa tới 10% giá trị xuất khẩu của toàn nền kinh tế, song nông nghiệp lại là lĩnh vực đem đến những “động lực mới” cho tăng trưởng xuất khẩu năm 2021 - khi nhiều nhóm hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu dù giảm về lượng nhưng lại tăng cao về giá trị.
Một điểm sáng trong hoạt động xuất nhập khẩu phải kể đến, đó là chúng ta đã khai thác tốt các thị trường nước ngoài, đưa hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Cùng với việc giữ được các thị trường xuất khẩu truyền thống, như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN thì doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA và UKVFTA, vừa giúp đa dạng hóa thị trường, vừa mở rộng xuất khẩu nhiều loại hàng hóa mà nước ta có lợi thế sang thị trường tiềm năng. Thống kê cho thấy, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường EU tăng 14,2%, sang thị trường Vương quốc Anh và Bắc Ailen tăng 15,4%; hay xuất khẩu sang thị trường CPTPP chưa có FTA trước đây với Việt Nam tiếp tục ghi nhận tăng trưởng cao: Canada (tăng 19,5%), Mexico (tăng 46,1%), Peru (tăng 84,3%)...
Đáng chú ý, Bộ Công Thương đã nỗ lực mở cửa thị trường nhằm tháo gỡ các rào cản giúp xuất khẩu Việt Nam không chỉ tăng quy mô chiều rộng mà hướng tới cả về chiều sâu. Hàng hóa xuất khẩu tiếp cận được các khu vực thị trường được coi là “khó tính” nhất trên thế giới, nơi đặt ra những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là với nhóm hàng nông sản và thủy sản.
Trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp, Bộ Công Thương đã nhanh chóng chuyển hướng tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại trực tuyến, kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài thông qua mạng lưới Thương vụ. Đây là một sự chuyển hướng kịp thời, nhanh nhạy, đem lại hiệu quả thiết thực để giúp cho các doanh nghiệp không bị đứtgãy chuỗi cung ứng cũng như quan hệ kinh doanh. Thậm chí, doanh nghiệp có thể tìm được các đối tác, bạn hàng ở những địa bàn mà trước đây chúng ta gần như khó có thể tiếp xúc như ở châu Phi, châu Đại Dương, Trung Đông thông qua nền tảng trực tuyến. Bên cạnh đó, Bộ cũng tiếp tục đàm phán, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động xuất khẩu nông sản qua cửa khẩu. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xử lý kịp thời các vướng mắc trong lưu thông hàng hóa, giải tỏa kịp thời những ách tắc tại các cửa khẩu, bến cảng nhằm duy trì các hoạt động xuất nhập khẩu, từng bước giảm thiểu khó khăn do giá logistics tăng cao đột biến… Những nỗ lực này đã góp phần quan trọng vào thành tích chung của xuất nhập khẩu trong năm vừa qua.
Trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp nhất, Bộ Công Thương đã nhanh chóng quyết định thành lập Tổ công tác đặc biệt đảm bảo nguồn cung hàng hóa và hỗ trợ sản xuất, kinh doanh các tỉnh, thành phố miền Nam, và sau đó là miền Bắc và miền Trung. Đây được đánh giá là giải pháp kịp thời, được các đại biểu Quốc hội đánh giá rất cao. Hoạt động và kiến nghị của Tổ công tác đặc biệt đã góp phần mang lại hiệu quả ra sao trong kết nối cung - cầu, phục hồi sản xuất, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Ngày 17/7/2021, Bộ Công Thương đã họp khẩn và quyết định thành lập Ban chỉ đạo cung ứng hàng hóa cho TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố phía Nam. Cùng lúc, Tổ công tác tiền phương (nay là Tổ công tác đặc biệt phía Nam của Bộ Công Thương) ra đời. Tổ có 5 nhiệm vụ cấp bách gồm: (1) Nắm bắt sát diễn biến thị trường và nhu cầu hàng hóa thiết yếu của các tỉnh, thành phố phía Nam, nhất là các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang áp dụng biện pháp giãn cách xã hội; (2) Kết nối cung - cầu hàng hóa thiết yếu trong và ngoài các địa phương phía Nam, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người dân trong vùng dịch; (3) Thực hiện công tác điều tiết, cung ứng hàng hóa thiết yếu thông suốt tại các tỉnh, thành phố có dịch, giữa các tỉnh, thành phố có dịch với các địa phương khác; (4) Phối hợp cùng lực lượng chức năng tại các địa phương đảm bảo lưu thông hàng hóa, chống hiện tượng găm hàng, tăng giá, ép giá, bán hàng kém chất lượng; (5) Tổng hợp các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong cung ứng hàng hóa thiết yếu tại các tỉnh, kịp thời tham mưu, đề xuất hướng xử lý để báo cáo Ban Chỉ đạo cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phía Nam.
Tiếp đó, ngày 6/8/2021, Bộ Công Thương đã lập thêm Tổ công tác đặc biệt nhằm đảm bảo nguồn cung hàng hóa và hỗ trợ duy trì hoạt động, sản xuất tại miền Bắc và miền Trung. Trong thời gian làm việc tại phía Nam, Tổ công tác đã khảo sát, kiểm tra tình hình cung ứng hàng hóa cũng như công tác chống dịch tại các chợ trên địa bàn các quận chính của TP. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nắm bắt thực tế, ghi nhận hiện trạng cũng như lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con tiểu thương, Tổ công tác đã kịp thời đề xuất phương án kích hoạt hệ thống siêu thị, các điểm bán hàng lưu động để đảm bảo không gián đoạn nguồn cung hàng hóa khi gần 200 chợ truyền thống cùng lúc phải ngưng hoạt động.
Trong thời gian này, Tổ công tác cũng thường xuyên trao đổi với Sở Công Thương 19 tỉnh, thành phố phía Nam, Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam để nhân rộng mô hình tổ chức các hệ thống phân phối dã chiến tại các địa phương trong bối cảnh đóng cửa chợ, các siêu thị, cửa hàng, kho hàng thường xuyên bị ca F0 xâm nhập phải đóng cửa, khử trùng, truy vết gây gián đoạn dịch vụ cung ứng. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ, gắn kết liên ngành và liên vùng nhằm giải quyết dứt điểm những khó khăn, vướng mắc.
Trên cơ sở đề xuất kiến nghị của Tổ công tác đặc biệt phía Nam, Bộ Công Thương đã liên tiếp ban hành các văn bản hướng dẫn, giải quyết khó khăn trước mắt, đồng thời kiến nghị khẩn lên Chính phủ cho phép được áp dụng một giải pháp đồng bộ và lâu dài; kiến nghị với các bộ, ngành, địa phương trong đảm bảo lưu thông, tiêu thụ hàng hóa, hỗ trợ doanh nghiệp.
Đơn cử: xây dựng Danh mục hàng hóa cấm lưu thông; đề xuất “cần ưu tiên” tiêm vắc-xin cho người lao động tại các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, các khu, cụm công nghiệp; đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cómVăn bản chỉ đạo các đơn vị liên quan thực hiện thống nhất các quy định về phòng, chống dịch Covid-19 đối với các phương tiện vận tải hàng hóa thiết yếu khi lưu thông qua địa bàn để tránh gây ách tắc trong khâu lưu thông, vận chuyển hàng hóa thiết yếu; kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân trong việc tiêu thụ lúa gạo hàng hóa vụ hè thu giữa thời điểm dịch bệnh; Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét và chỉ đạo các ngân hàng thương mại hỗ trợ về tín dụng, giảm lãi suất cho vay, kéo dài thời hạn cho vay cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp sản xuất đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19; kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng cơ chế để doanh nghiệp được tăng giờ làm trong thời gian cắt giảm lao động (nhưng không vượt quá số giờ hàng năm theo Luật lao động)…
Bộ Công Thương cũng đã có văn bản đôn đốc, chỉ đạo các địa phương thực hiện thống nhất chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan trong hoạt động phân phối hàng hóa thiết yếu, để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích hệ thống phân phối hoạt động kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của người dân trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp.
Có thể nói, sự ra đời và hoạt động hiệu quả của các Tổ công tác đặc biệt đã góp phần quan trọng nối liền chuỗi cung ứng và hỗ trợ sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp.
Hàng Việt đã khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống phân phối khi luôn chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt là trong giai đoạn chuỗi cung ứng bị đứt gãy do dịch bệnh, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng của tổng mức bán lẻ hàng hóa trong năm nay. Bộ Công Thương đã triển khai những giải pháp gì nhằm liên kết cung - cầu, giữ vững chuỗi cung ứng hàng hóa thời gian qua? Và, với Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 lần đầu tiên được ban hành, thưa Bộ trưởng, ngành Công Thương sẽ có bước đi đột phá nào trong năm tới và giai đoạn đến 2025 để hàng Việt ngày càng khẳng định vị thế?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương ngay lập tức vào cuộc để cùng nhau tháo gỡ khó khăn, làm mọi cách để giữ vững được các chuỗi cung ứng hàng hóa, tạo các mối liên kết để giữ hàng hóa được lưu thông trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu, giữ vững chuỗi cung ứng hàng hóa ra thế giới đối với những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh. Kết quả là trong giai đoạn đỉnh dịch thì hàng hóa thiết yếu vẫn tiếp tục được cung ứng cho gần 100 triệu người dân Việt Nam, đặc biệt là ở các địa phương 19 tỉnh, thành phố phía Nam, trong đó có TP. Hồ Chí Minh.
Để người dân tiếp cận được các loại hàng hóa như lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, hàng hóa chống dịch trong giai đoạn dịch bệnh, chúng tôi đã sử dụng mạng lưới doanh nghiệp đang tham gia Cuộc vận động “Người ViệtNam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trong 11 năm qua. Đặc biệt, thông qua chương trình bình ổn thị trường, các doanh nghiệp này đã hình thành được mạng lưới rộng khắp trên địa bàn các tỉnh, thành phố với những hệ thống kho vận, logistics và nguồn nhân lực để có thể điều phối từ tỉnh này sang tỉnh khác, rất chuyên nghiệp. Đồng thời có được nguồn hàng dồi dào đã được củng cố trong nhiều năm vừa qua với những bạn hàng trung thành.
Thời gian qua, Bộ Công Thương đã dựa vào các hệ thống siêu thị để cung ứng hàng hóa đến người dân. Đặc biệt, chúng tôi còn vận động được thêm hai hệ thống bưu cục của Việt Nam Post và Viettel Post cùng tham gia trong giai đoạn đỉnh dịch để thiết lập ra những điểm bán hàng mới.
Như chúng ta đã thấy thì trong giai đoạn đỉnh dịch, tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố phía Nam vẫn đủ hàng hóa cho nhu cầu sử dụng. Có thể thấy rằng, sức mạnh nội lực của sản xuất, kinh doanh hàng Việt Nam đã phát huy và đây chính là thành quả giúp chúng ta duy trì được nền kinh tế và duy trì được chuỗi cung ứng hàng hóa thiết yếu cho người dân. Đồng thời khẳng định được rằng chủ trương của Bộ Chính trị trong việc triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là hết sức đúng đắn.
Tháng 7/2021, Chính phủmđã ban hành Quyết định 1163/ QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược “Phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một chiến lược tổng thể về phát triển thương mại trong nước. Định hướng chủ yếu phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước; củng cố, thiết lập trật tự thị trường thích ứng với bối cảnh, tình hình mới, từng bước phát triển thương mại trong nước ổn định và bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng thương mại trong nước cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP; tăng dần tỷ trọng đóng góp của lĩnh vực thương mại trong nước vào khu vực dịch vụ và GDP của cả nước.
Bộ Công Thương tiếp tục phát huy vai trò tham mưu để Chính phủ ban hành các chính sách phát triển đa dạng phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh thương mại trong nước; tổ chức và vận hành hiệu quả các hệ thống cung ứng, phân phối các nhóm hàng hóa chủ yếu trên thị trường; tiếp tục phát triển các doanh nghiệp đầu đàn trong nước có khả năng dẫn dắt thị trường, tạo sức lan tỏa đối với các doanh nghiệp vệ tinh và hạn chế sự phụ thuộc, chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia; thực hiện cơ cấu lại lĩnh vực thương mại trong nước theo hướng đổi mới sáng tạo và số hóa, công nghệ hóa phương thức kinh doanh; tăng cường kết nối, tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, các hệ sinh thái toàn cầu và khu vực. Bên cạnh đó, tiếp tục phát triển thương mại điện tử trở thành hình thức thương mại chủ đạo; xây dựng và phát,triển hạ tầng thương mại trong nước đồng bộ, hiện đại và bền vững, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của thị trường trên từng địa bàn, trong từng giai đoạn, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nước và hỗ trợ xuất khẩu; tập trung ưu tiên các loại hình hạ tầng thương mại có tính lan tỏa, có tác động đáng kể hỗ trợ sản xuất lưu thông. Đặc biệt, chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng thương mại khu vực nông thôn; tập trung hình thành được một hệ thống trung tâm logistics cơ bản hoàn chỉnh, có tính liên kết cao, ưu tiên xây dựng được một số trung tâm logistics lớn ở các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho các chuỗi cung ứng của Việt Nam.
II. Phát triển công nghiệp nền tảng tạo động lực tăng trưởng
2021 là năm thứ hai nền kinh tế trong nước bị tác động mạnh bởi dịch bệnh, tuy nhiên, sản xuất công nghiệp, đặc biệt là côngnghiệp chế biến, chế tạo vẫn tiếp tục thể hiện vai trò chủ đạo cho tăng trưởng kinh tế. Phát huy thế mạnh sản xuất trong nước đang và sẽ tiếp tục là mục tiêu mà ngành Công Thương hướng tới để tạo thế chủ động hơn nữa trong việc đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng, phát huy sức mạnh nội lực. Bộ trưởng có thể chia sẻ những giải pháp mà Bộ Công Thương đã triển khai để thúc đẩy sản xuất trong năm 2021 và hướng đi của năm tiếp theo?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Nền kinh tế trong nước đã khởi đầu với nhiều dấu hiệu khả quan, tích cực với sự phục hồi mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng cao trong những tháng đầu năm 2021. Tuy nhiên, từ cuối tháng 4, chúng ta lại phải đối mặt với khó khăn, thách thức lớn chưa từng có, khi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất công nghiệp, sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng… Bên cạnh đó, việc phát sinh nhiều chi phí phục vụ cho công tác phòng, chống dịch bệnh cũng ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, năm 2021, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng khá, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng ước đạt 4,82% so với năm 2020 (quý I tăng 6,44%; quý II tăng 11,18%; quý III giảm 4,4%; quý IV tăng 6,52%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với mức tăng 6,37% (quý I tăng 8,9%; quý II tăng 13,35%; quý III giảm 4,09%; quý IV tăng 7,96%), đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Có được kết quả này, bên cạnh sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt, quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc kịp thời, hiệu quả của các bộ, ngành, địa phương và sự nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp thì Bộ Công Thương đã tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh, cũng như khắc phục thiệt hại do dịch Covid-19. Bên cạnh đó, các giải pháp về mở rộng thị trường xuất khẩu, lưu thông hàng hóa nội địa, tổ chức xuất nhập khẩu cũng đã giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy sản xuất ở khu vực chế biến, chế tạo.
Năm 2022, để thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo động lực cho tăng trưởng, ngành Công Thương sẽ tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên vật liệu, năng lượng để đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án công nghiệp quan trọng; hỗ trợ tối đa các nhà máy duy trì và khôi phục sản xuất để giữ đơn hàng, chuỗi cung ứng. Khẩn trương đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư công lớn, đặc biệt là các dự án về năng lượng, hạ tầng phát triển ngành nhằm thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, giao thương của nền kinh tế cũng như phát triển thị trường cho một số ngành sản xuất chủ lực, nền tảng như thép, cơ khí, vật liệu xây dựng, ôtô… Triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách, giải pháp của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, người dân nhằm giúp các doanh nghiệp từng bước khôi phục các nguồn lực về tài chính và lao động phục vụ cho sản xuất. Đồng thời, chủ động tham mưu tổng kết việc thực hiện các mục tiêu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế; nhất là trong thực hiện chính sách thu hút đầu tư FDI ở lĩnh vực công nghiệp và thương mại, từ đó có chủ trương, chính sách phù hợp nhằm kết nối chặt chẽ giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành; từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt và năng lực tự chủ của nền kinh tế đất nước.
Dự thảo Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn 2021-2030 cũng nêu rõ cần xác định các động lực tăng trưởng mới của ngành Công Thương, tăng cường sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài và khai thác có hiệu quả quá trình hội nhập. Mà ở đó, phát triển công nghiệp với việc phát huy nội lực là yếu tố quan trọng. Trọng tâm ưu tiên là phát triển công nghiệp nền tảng để làm chủ khu vực sản xuất, đặc biệt là tư liệu cho các ngành công nghiệp xuất khẩu và nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Trong dài hạn, Bộ Công Thương đặt ra nhiệm vụ sẽ hoàn thiện khung pháp lý, khung chính sách nhằm thống nhất nguồn lực từ Trung ương đến địa phương để tập trung đầu tư, phát triển các dự án công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng, ngành sản xuất xuất khẩu chủ lực như công nghiệp hỗ trợ, vật liệu, hóa chất, chế tạo, chế biến, cơ khí, ôtô, dệt may, da - giày, điện - điện tử, chế biến thực phẩm...
Tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ thông qua các giải pháp hỗ trợ về tín dụng, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường; cũng như các ưu đãi về thuế và đất đai theo quy định của pháp luật. Đồng thời, nghiên cứu, tham mưu với cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ và huy động các nguồn lực để thúc đẩy phát triển các tập đoàn, doanh nghiệp lớn (cả Nhà nước và tư nhân) của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài (nhất là các nước có khoa học - công nghệ tiên tiến), giúp các doanh nghiệp này có thể đi tắt, đón đầu, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại; trực tiếp tham gia, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Tăng cường hợp tác quốc tế, xúc tiến thị trường ngoài nước tận dụng tối đa cơ hội từ các quốc gia có FTA với Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu các ngành hàng chủ lực, liên kết doanh nghiệp trong nước và các chuỗi sản xuất toàn cầu.
Khó khăn bởi dịch bệnh cũng đã khiến nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế được phát lộ nhờ tận dụng các nền tảng số. Năm 2021 có thể xem là “năm kinh tế số” của ngành Công Thương khi chúng ta cùng lúc triển khai nhiều giải pháp xúc tiến thương mại trên môi trường số và đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử (TMĐT), giúp tiêu thụ hàng hóa và kết nối doanh nghiệp với đối tác. Thưa Bộ trưởng, vai trò đột phá của kinh tế số đã được ngành Công Thương triển khai như thế nào, và hướng đi trong năm 2022 sẽ tập trung vào những hoạt động trọng tâm gì?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, thị trường TMĐT càng trở nên sôi động hơn và việc ứng dụng công nghệ số, xây dựng kênh phân phối mới đang trở thành một phương án hữu hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua khó khăn mang đến cơ hội mới từ nhu cầu mới phát sinh của thị trường.
Bất chấp khó khăn do đại dịch Covid-19, cùng với những chính sách về giãn cách xã hội và các biện pháp nghiêm ngặt phòng, chống dịch bệnh Chính phủ đặt ra, TMĐT Việt Nam như cánh tay nối dài của hạ tầng thương mại số. Việt Nam là quốc gia tiếp tục duy trì mức tăng trưởng dương. Năm 2021, TMĐT Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 15% so với năm 2020, quy mô thị trường thương mại điện tử B2C đạt xấp xỉ 13,7 tỷ USD.
Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp khi kinh doanh trực tuyến, có thể nói, Covid-19 là một thách thức lớn, chưa từng có tiền lệ và cũng là một cơ hội lớn đối với doanh nghiệp khi họ buộc mình phải thay đổi để thích ứng với điều kiện hiện tại. Nhiều doanh nghiệp trước đây chưa từng bán trực tuyến nay phải chuyển hướng sang bán trực tuyến để có được doanh thu, nhiều người tiêu dùng trước đây không sử dụng các nền tảng bán hàng trực tuyến nay đã phải mua hàng trực tuyến. Theo khảo sát của Bộ Công Thương, về mặt hiệu quả trong kinh doanh trực tuyến, doanh nghiệp có hoạt độngkinh doanh trực tuyến được đánh giá hiệu quả chiếm tỷ lệ khá cao với 57%, và tỷ lệ được đánh giá hiệu quả cao là 24%. Đáng chú ý, giải pháp số hóa, ứng dụng thương mại điện tử tiếp tục trở thành “phao cứu sinh”, giúp doanh nghiệp dần thích nghi với trạng thái vừa “sống chung” với dịch, vừa kinh doanh phát triển kinh tế.
Ngày 4/11/2021, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng các đại biểu cắt băng khai mạc Tuần hàng Việt Nam tại Pháp
Năm 2022, kinh tế số được dự báo sẽ làm thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và cơ chế vận hành cung - cầu thị trường trong nước. Cụ thể, phát triển kinh tế số gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh là một yêu cầu cấp thiết. Bộ Công Thương sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số, thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1968/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2030”.
Nghiên cứu, xây dựng Thông tư hướng dẫn Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Thương mại điện tử. Tập trung triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN; triển khai kết nối C/O form EAV với Liên minh Kinh tế Á - Âu theo đúng Điều khoản quy định trong FTA; chỉnh sửa hệ thống eCOsys để cho phép thực hiện cấp C/O điện tử Mẫu D, E, AHK, AK/VK, AANZ, AI, AJ/VJ và VC có “chữ ký và con dấu điện tử” kèm theo mã QR để xác thực, chống giả mạo nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt trong việc cấp C/O ưu đãi cho hàng hóa xuất khẩu.
III. Nâng cao hiệu quả công việc bằng cải cách hành chính
Xin Bộ trưởng cho biết những kết quả nổi bật về công tác cải cách hành chính (CCHC) của Bộ Công Thương năm 2021 gắn liền với quá trình chuyển đổi số, đặc biệt trong bối cảnh hoạt động của cán bộ công chức bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Năm 2021, dưới tác động nặng nề của dịch bệnh, các đợt giãn cách xã hội… song công tác CCHC, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh và các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh vẫn được Bộ Công Thương duy trì thường xuyên, liên tục và đạt được những kết quả tích cực.
Với quan điểm quyết liệt hành động, liên tiếp trong các năm từ 2016 đến nay, Bộ Công Thương đã nghiêm túc triển khai các Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như góp phần hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Bộ Công Thương là Bộ tiên phong thực hiện việc cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, đã có nhiều đề xuất tham mưu cho Chính phủ cũng như có văn bản chỉ đạo các đơn vị chức năng rà soát để đơn giản, cắt giảm thủ tục hành chính (TTHC), điều kiện kinh doanh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Tính đến nay, Bộ Công Thương đã thực hiện cắt giảm,đơn giản hóa tổng cộng trên 880 điều kiện trong tổng số 1.216 điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ (chiếm hơn 70%). Bộ Công Thương cũng đã phân cấp cho các địa phương thực hiện 147/444 TTHC; cập nhật công khai đầy đủ toàn bộ 444 TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia về TTHC.
Bên cạnh việc đơn giản hóa thể chế, Bộ Công Thương đã chủ động triển khai hàng loạt các giải pháp nhằm đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc, cải thiện cách thức thực hiện TTHC theo hướng đẩy mạnh áp dụng dịch vụ công trực tuyến, tạo sự thay đổi rõ rệt trong xây dựng Chính phủ điện tử và giải quyết TTHC. Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) được xem là khâu quan trọng, then chốt trong CCHC, xây dựng chính quyền điện tử. Đặc biệt, hiện nay khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, việc áp dụng thực hiện TTHC qua DVCTT vừa đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện cho các đối tượng thực hiện TTHC thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, đồng thời giúp hạn chế tập trung đông người, góp phần vào công tác phòng, chống dịch bệnh nói chung của cả nước.
Đến thời điểm này, tất cả 295 TTHC cấp Trung ương thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương đã được triển khai DVCTT mức độ 2 trở lên, trong đó có 228 DVCTT cấp độ 4. Bên cạnh việc đưa vào sử dụng các DVCTT, Bộ Công Thương đã hỗ trợ hàng vạn lượt doanh nghiệp sử dụng các DVCTT thông qua điện thoại, email… góp phần hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tốt hơn trong việc tiếp cận với các TTHC do Bộ quản lý. Bộ cũng đã đưa tổng cộng 131 DVCTT mức độ 3, 4 lên Cổng Dịch vụ công quốc gia; cơ bản thực hiện kết nối 22 nhóm DVCTT với Cơ chế một cửa quốc gia; phối hợp với Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), kết nối thành công và đã trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D điện tử với 9 nước bao gồm: Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Bruinei, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines.
Thời gian tới, Bộ sẽ xây dựng kế hoạch rà soát, đề xuất phương án phân cấp TTHC theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “cấp nào sát cơ sở, sát nhân dân nhất thì giao cấp đó giải quyết, không để tình trạng nhiều tầng nấc, kéo dài thời gian giải quyết và gây nhũng nhiễu, tiêu cực”; vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, qua đó giúp rút ngắn thời gian chờ đợi, thực hiện TTHC của người người dân và doanh nghiệp đối với các TTHC thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương.
Bám sát Nghị quyết số 55- NQ/TW của Bộ Chính trị cũng như các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Bộ Công Thương đang hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII. Để dư luận hiểu rõ hơn về định hướng phát triển năng lượng điện Việt Nam, Bộ trưởng có thể khái quát những điểm nổi bật của Quy hoạch này?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên:
Điểm nổi bật của dự thảo Quy hoạch điện VIII là đã bám sát chỉ đạo của Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII là “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng, ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”; đồng thời Quy hoạch điện VIII cũng bám sát các chiến lược, cam kết của Việt Nam về bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Quy hoạch đã tính toán bổ sung phương án phát triển nguồn điện theo hướng ưu tiên phát triển các nguồn điện năng lượng sạch, năng lượngtái tạo (đặc biệt là điện gió, mặt trời..), năng lượng mới… phù hợp cam kết cắt giảm khí CO2 tại Hội nghị COP26. Đồng thời không phát triển thêm mới các nguồn điện than, từng bước giảm tỷ lệ nhiệt điện than trong dài hạn; đảm bảo cao nhất khả năng tự cân đối nội vùng và nội miền, tránh truyền tải xa; đảm bảo an ninh cung cấp điện.
Phát triển hệ thống thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch; có cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân trong việc phát triển nguồn và lưới điện truyền tải; đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh để huy động các nguồn lực của nền kinh tế cho phát triển ngành.
Cũng liên quan tới lĩnh vực năng lượng, Bộ Công Thương sẽ hướng tới mục tiêu phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; hình thành các trung tâm năng lượng lớn theo lợi thế cạnh tranh của các địa phương; phát triển hệ thống thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh để huy động các nguồn lực của nền kinh tế cho phát triển ngành.
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Theo báo Công Thương