Thông tin từ Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam cho biết, khoảng những năm 1990, tình trạng tổn thất than (gồm lộ thiên và hầm lò) tỷ lệ thất thoát trong khai thác lên đến 20%. Trong đó, các mỏ lộ thiên thất thoát 10-13%, hầm lò còn lên tới 40-50%. Thậm chí, có những mỏ cao hơn vì điều kiện địa chất phức tạp không thể khai thác được. Nguyên nhân chủ yếu do hiệu quả khai thác không cao, hơn nữa việc lựa chọn công nghệ khai thác thời kỳ đó còn lạc hậu.
Trước thực trạng này, đi đôi với tăng cường công tác quản trị tài nguyên, những năm gần đây, Tập đoàn đã có bước chuyển biến tích cực trong việc đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ cơ giới hóa khai thác, trong đó ở các mỏ lộ thiên đã tăng cường áp dụng dây chuyền thiết bị đồng bộ, gồm các thiết bị khoan, xúc bốc, vận tải theo hướng công suất lớn và thủy lực hóa. Ðối với các mỏ hầm lò, mức độ cơ giới hóa trong các khâu đào, chống lò, khai thác, vận chuyển than đã không ngừng được nâng cao, đầu tư bằng nhiều thiết bị máy móc hiện đại. Do vậy, mức độ tổn thất than ở các mỏ lộ thiên đã giảm còn 6%, hầm lò giảm dưới 30%.
Cụ thể, trong khai thác hầm lò, nhiều đơn vị đã và đang triển khai nghiên cứu công nghệ và các giải pháp thích hợp để khai thác trữ lượng than, trong đó, tiếp tục đẩy mạnh mức độ cơ giới hóa nhằm tiêu hao lượng gỗ chống lò, theo như tính toán, bình quân sử dụng 10m3 gỗ /1.000 tấn than nguyên khai thì mỗi năm ngành than tiết kiệm được hàng triệu m3 gỗ. Ðiều đó không những góp phần nâng cao hiệu quả khai thác mà còn góp phần bảo vệ môi trường và tài nguyên rừng.
Với các mỏ lộ thiên, tỷ lệ giảm tổn thất than đã giảm từ 10% xuống còn 8% nhờ sử dụng các loại máy xúc thủy lực, máy xúc lật thế hệ mới việc đào sâu đáy mỏ đã tăng tốc độ xuống sâu trung bình 15m/năm, gấp đôi so với trước đây. Hơn nữa, các giải pháp công nghệ đã tạo điều kiện khai thác sâu hơn, không những gia tăng đáng kể hệ số thu hồi than nhiều mỏ lộ thiên ở Quảng Ninh tiếp tục kéo dài vòng đời khai thác so với dự kiến.
Nguồn: VietQ.vn