Thực tế cho thấy, nhiều năm qua, Luật Đầu tư đã đóng vai trò nền tảng trong việc thu hút nguồn lực trong và ngoài nước. Song cùng với những kết quả đạt được, một số hạn chế cũng bộc lộ, nhất là các quy định liên quan đến quy định về quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài…
Nhằm thực hiện mục tiêu “năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những điểm nghẽn do quy định pháp luật” tại Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu, Bộ Tài chính đã đề xuất nhiều chính sách sửa đổi căn bản cho Luật Đầu tư (thay thế), dự kiến trình Quốc hội thông qua ngay tại Kỳ họp thứ 10 tới đây.
Theo ông Hoàng Mạnh Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính, sửa đổi Luật tập trung vào 5 nhóm chính sách trọng tâm, gồm hoàn thiện, đơn giản hóa thủ tục đầu tư kinh doanh; tăng cường phân cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư; hoàn thiện quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đồng thời, hoàn thiện quy định về ngành, nghề ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi và chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt; quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp yêu cầu quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do đầu tư kinh doanh và hoàn thiện quy định triển khai thực hiện dự án đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn, bảo đảm tính khả thi.
Đáng chú ý, đề xuất liên quan đến thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hiện còn một số vấn đề cần giải quyết. Tại Dự thảo tờ trình chính sách Luật Đầu tư (thay thế), Bộ Tài chính kiến nghị bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thầm quyền của Quốc hội, Thủ tướng và Bộ Tài chính. Thay vào đó, nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước về việc chuyển tiền ra nước ngoài.
Theo Bộ Tài chính, việc bỏ thủ tục cấp phép này giúp hoạt động đầu tư ra nước ngoài được quản lý đúng, thực chất hơn. Bởi, nhà đầu tư sẽ đăng ký với Ngân hàng Nhà nước sau khi họ có đủ hồ sơ chấp thuận đầu tư của nước ngoài (giấy phép đầu tư, chứng nhận thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng góp vốn, mua cổ phần vào công ty nước ngoài...).
Phương án này cũng giúp cắt giảm nhiều thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà đầu tư, tăng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Việc này còn tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận nhanh hơn cơ hội làm ăn ở nước ngoài, mở rộng thị trường, phát triển vùng nguyên liệu, đóng góp cho nền kinh tế.
Trước đó, góp ý về việc sửa Luật Đầu tư, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá việc doanh nghiệp tư nhân trong nước đầu tư ra nước ngoài đang dần trở thành một xu hướng phổ biến trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tham gia chủ động hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Đây cũng là cách thức quan trọng để doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ, phát triển thị trường, tìm kiếm khách hàng.
Do đó, VCCI đề xuất nhà điều hành cân nhắc bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương và cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Theo VCCI, việc chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài với doanh nghiệp nhà nước có thể cần thiết vì nguồn vốn của Nhà nước. Tuy nhiên, việc kiểm soát các nguồn tư nhân, theo hình thức cấp phép, dựa vào quy mô hoặc theo nhóm ngành nghề, chưa có mục tiêu rõ ràng. Trong khi đó, cơ chế này tạo gánh nặng lớn về thủ tục cho các nhà đầu tư bởi bất kì sự thay đổi nào cũng phải điều chỉnh giấy chứng nhận. Việc này cũng chưa hợp lý bởi hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của nước sở tại, không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
"Việc yêu cầu cơ quan nhà nước đánh giá về hình thức, quy mô, địa điểm và tiến độ thực hiện dự án, nguồn vốn là không khả thi, cần thiết", VCCI đánh giá.
Cũng theo VCCI, pháp luật đã ghi nhận quyền tự chủ của doanh nghiệp nên việc đánh giá sự cần thiết và rủi ro đầu tư là sự can thiệp vào quyền tự quyết.
Theo diendandoanhnghiep.vn