Thứ Năm, 21/11/2024 23:27:48 GMT+7
Lượt xem: 4776

Tin đăng lúc 15-09-2014

Tổng công ty Điện lực miền Bắc: Cái nôi của ngành Điện Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

Năm 2014, Tổng công ty Điện lực miền Bắc kỷ niệm 45 năm ngày thành lập (06/10/1969 * 06/10/2014) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất – Phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng. Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, ghi nhận sự nỗ lực quyết tâm, tinh thần đoàn kết, lao động sáng tạo của hơn 27.000 CBCNV toàn Tổng công ty trong chặng đường gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, vì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tổng công ty Điện lực miền Bắc: Cái nôi của ngành Điện Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến thăm và nói chuyện với CBCNV Công ty Điện lực Quảng Ninh ngày 27/7/2014

 

Thời kỳ 1969-1975

 

Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVN NPC), tiền thân là Công ty Điện lực, sau đổi tên thành Công ty Điện lực 1 ra đời có nhiệm vụ chính là cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của nhân dân 27 tỉnh, thành phố miền Bắc. Trong giai đoạn đầu mới thành lập, Công ty gặp muôn vàn khó khăn, do cả nước phải tập trung cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, không đủ lực để cải tạo phát triển lưới điện mới, trong khi vừa phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh hủy diệt của không quân Mỹ nên hệ thống nguồn và lưới điện miền Bắc còn quá sơ sài, xuống cấp và hư hỏng nặng. Trong đó, nguồn điện chỉ có 180 MW công suất đặt, 4.644  km đường dây và 1.781 trạm biến áp các loại. Lưới điện truyền tải mới chỉ có cấp điện áp 110 kV, nối giữa các nhà máy lớn với các trạm biến áp 110 kV Hà Đông – Đông Anh – An Lạc – Trình Xuyên và Mông Dương. Nhiều khu vực lưới điện chuyên tải chủ yếu là đường dây 35 kV đẳng cấp 1. Trang thiết bị kể cả nguồn và lưới điện đều thuộc các thế hệ cũ, lạc hậu, trình độ tự động hoá thấp, chủ yếu là vận hành thủ công.

 

Với mục tiêu “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”, toàn thể CBCNV, từ các nhà máy, công trường đến các cơ sở phân phối điện đã làm hết sức mình, anh dũng kiên cường bám lò, bám máy, bám địa bàn, vừa sản xuất, vừa chiến đấu chống trả quyết liệt cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ để duy trì nguồn điện phục vụ sản xuất và chiến đấu với khẩu hiệu “Địch phá hỏng ta lập tức khôi phục”. Duy trì nguồn điện cho Tổ Quốc đã trở thành tâm tư và lẽ sống của người thợ điện. Trong một thời gian ngắn thực hiện khắc phục hậu quả chiến tranh tàn phá, Công ty Điện lực 1 đã khôi phục các nhà máy, trạm biến áp và hệ thống đường dây tải điện để đưa công suất nguồn đạt 451 MW, sản lượng điện năng đạt 1,264 tỷ kWh.

 

Giai đoạn 1976-1985

 

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ của Công ty Điện lực 1 được cấp trên giao cho là rất nặng nề, vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, vừa phải san sẻ cán bộ, công nhân có chuyên môn, tay nghề cao, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt vào miền Nam tiếp quản các cơ sở vật chất của ngành Điện lực, làm nòng cốt thành lập Công ty Điện lực 2 ở miền Nam và Công ty Điện lực 3 ở miền Trung. Đồng thời, hỗ trợ các trang thiết bị, vật tư, tiền vốn, tạo điều kiện để các công ty mới thành lập đi vào hoạt động được tốt. Sau 10 năm khôi phục và phát triển, đến năm 1985, Công ty Điện lực 1 đã hoàn thành được mạng lưới truyển tải cấp điện áp 220 kV nối liền các nút truyền tải điện giữa Hoà Bình - Hà Đông - Chèm - Đông Anh - Phả Lại - Hải Phòng - Thanh Hoá – Vinh. Đưa nhà máy Nhiệt điện Phả Lại có công suất 440 MW vào hoạt động. Đây là nhà máy nhiệt điện hiện đại và lớn nhất trong khu vực. Công suất nguồn toàn Công ty đạt 860 MW, sản lượng đạt 3 tỷ kWh, chiếm 50% sản lượng điện năng toàn quốc. Đây cũng là mạng lưới điện thống nhất ở khu vực phía Bắc của Tổ quốc.

 

Giai đoạn từ năm 1986 - 2008

 

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội đất nước, ngành Điện được xác định vị trí quan trọng hàng đầu: “Điện luôn luôn phải đi trước một bước”. Xác định đó là nhiệm vụ nặng nề và cũng là vinh dự lớn lao, toàn thể CBCNV Công ty Điện lực 1 với ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết đã hăng hái thi đua lao động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, liên tục nỗ lực phấn đấu thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Từ năm 1986 – 1995, công tác phát triển nguồn và lưới điện luôn luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao từ 10 đến 20% hàng năm. Sự tăng trưởng này đảm bảo cho chất lượng của hệ thống điện miền Bắc được ổn định vững chắc, thể hiện vai trò là Công ty chủ chốt của ngành Điện.

 

Thành tích nổi bật là Công ty đã đóng góp tích cực vào việc đưa tổ máy số 1 Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình (công suất 240 MW) vào vận hành tháng 12/1988 và liên tiếp những năm sau đó đã đưa từ 1 đến 2 tổ máy vào vận hành. Đến tháng 4/1994, toàn bộ 8 tổ máy của Thủy điện Hòa Bình đã được đưa vào vận hành, tăng 1.920 MW cho hệ thống, nâng công suất nguồn điện do Công ty quản lý lên gần 3000 MW. So với năm 1985, nguồn điện tăng hơn 3,5 lần. Đồng thời với việc tăng trưởng nguồn điện, Công ty đã tích cực phấn đấu phát triển mạnh lưới điện. Năm 1990, lưới điện truyền tải 220 kV ở miền Bắc đã vươn tới thành phố Đà Nẵng để cấp điện cho các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên Huế và Đà Nẵng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng là kết nối hệ thống điện miền Bắc với hệ thống điện miền Trung thành một thể thống nhất, nhờ đó đã chấm dứt tình trạng “đói điện” của miền Trung kể từ ngày giải phóng đến nay. Ngoài ra, với sự chỉ đạo của Bộ, Công ty Điện lực 1 đã chắt chiu tiết kiệm chi phí, chịu một phần thiệt thòi về lợi nhuận để bán điện cho Công ty Điện lực 3 (Tổng công ty Điện lực miền Trung ngày nay) với giá thấp chỉ bằng 1/3 giá bán thông thường. Lượng điện năng bán giá thấp hàng năm lên tới 1 tỷ kWh, góp phần đáng kể vào việc giúp đỡ đồng bào miền Trung phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống.

 

Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, trong đó vấn đề đưa điện về vùng sâu, vùng xa hẻo lánh, vùng miền núi, biên giới của Tổ quốc là đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của ngành Điện lực Việt Nam. Công ty Điện lực 1 đã xây dựng và đưa vào vận hành đường dây 110 kV và các trạm biến áp 110/35/10 – 6 kV tại các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang và Cẩm Phả - Tiên Yên - Móng Cái - Mộc Châu - Sơn La - Lai Châu - Lạng Sơn... đưa điện lưới Quốc gia phủ kín các tỉnh ở miền Bắc. Đặc biệt, năm 1992, lưới điện Quốc gia đã được đưa tới tất cả các huyện trong tỉnh Lạng Sơn, vượt kế hoạch 2 năm. Việc đưa ánh sáng của Đảng tới cho đồng bào các dân tộc, nơi miền núi xa xôi hẻo lánh là việc làm có một không hai trong lịch sử phát triển đất nước, thể hiện sinh động tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. 

 

Nền kinh tế xã hội phát triển đòi hỏi nhu cầu về điện ngày càng lớn. Do đó, sự lớn mạnh không ngừng cả về nguồn điện, lưới điện ở miền Bắc cũng chưa giải quyết được tình trạng thiếu điện và không ổn định ở khu vực miền Trung và miền Nam. Vì vậy, năm 1992, Đảng, Nhà nước đã quyết định cho khởi công xây dựng đường dây 500 kV Bắc – Nam, đồng thời với các trạm biến áp 500 kV ở các khu vực. Công ty Điện lực 1, ngoài việc dồn tâm lực cho việc hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch được giao đã tập trung cao độ sức người, sức của để tham gia xây dựng công trình. Ngày 27/5/1994, ngành Điện đã chính thức khánh thành công trình đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam dài 1.487 km đường dây và 3 trạm biến áp 500 kV..., hợp nhất hệ thống điện toàn quốc, khắc phục tình trạng dư công suất ở miền Bắc, thiếu công suất ở miền Trung và miền Nam. Điện năng đã được truyền tải từ Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình qua trạm biến áp 900 MW để đáp ứng 80% nhu cầu công suất của Công ty Điện lực 3 ở miền Trung và 50% nhu cầu công suất của Công ty Điện lực 2 ở miền Nam. Một lần nữa Công ty Điện lực 1 được khẳng định vai trò chủ chốt của ngành Điện lực Việt Nam trong việc hình thành hệ thống lưới điện quốc gia của một đất nước thống nhất.

 

Do nhu cầu sử dụng điện khu vực miền Bắc ngày càng cao, tốc độ phát triển phụ tải các loại trên địa bàn Công ty Điện lực 1 quản lý tăng đột biến và không theo quy luật thông thường. Để khắc phục tinh trạng đó, Công ty Điện lực 1 đã huy động mọi nguồn lực, giải pháp để từ năm 2000 – 2007, đầu tư, cải tạo 12.706 hạng mục công trình với tổng giá trị đầu tư gần 12.230 tỷ đồng. Tốc độ đầu tư tăng trưởng bình quân đạt trên 18%/năm. Trong đó, chú trọng công tác chống quá tải, nâng công suất các trạm và đường dây, với việc đưa vào vận hành 45 trạm biến áp 110 kV (tổng dung lượng đạt tới 2.150 MW năm 2002) và cơ bản hoàn thành chương trình chống quá tải lưới điện 110 kV.

 

Đặc biệt, để quản lý tập trung thống nhất, đảm bảo lưới điện có khả năng cung ứng điện ổn định, chất lượng và thực hiện sự công bằng trong cung cấp dịch vụ mua bán điện giữa nông thôn và thành thị, yêu cầu đặt ra với ngành Điện là tiếp quản toàn bộ lưới điện trung áp nông thôn, tiến tới tiếp quản toàn bộ lưới điện hạ áp và thực hiện bán điện đến hộ nông thôn. Công ty Điện lực 1 đã triển khai tiếp nhận và hoàn trả vốn lưới điện trung áp nông thôn đồng loạt trên 26 tỉnh thuộc địa bàn Công ty quản lý với tổng số 8484 trạm biến áp, 6772 km đường dây ở 3472 xã, bằng 30% số lượng đường dây và trạm biến áp cùng loại Công ty đang quản lý. Số lượng đường dây và trạm biến áp này hầu hết đã được xây dựng từ những năm 1960-1980, do chính quyền các xã quản lý và bán điện đến hộ nông dân. Do kỹ thuật lạc hậu, trình độ quản lý cung ứng điện kém nên hầu hết các xã đều có giá bán điện đến các hộ nông dân ở mức 900-1500đ/kWh, cá biệt có nơi giá lên đến 2000đ/kWh. Trước khối lượng công việc rất lớn và nhiều khó khăn phải tính đến, lãnh đạo Công ty và toàn thể CBCNV đã nhất trí cao với quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Quốc hội, hoàn thành vượt mức kế hoạch tiếp nhận mà Tổng công ty Điện lực Việt Nam giao cho trong 3 năm (2000-2002). Công ty đã đề ra giải pháp thực hiện hợp lý, mở nhiều lớp tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ tiến hành giải pháp đã đề ra, tiếp nhận đến đâu dứt điểm đến đó. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các Sở, Ban ngành ở địa phương, tham mưu đề xuất, báo cáo kịp thời với lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp ở địa phương để giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc, kết hợp phát động phong trào thi đua đến các đơn vị và đã được các đơn vị hưởng ứng sôi nổi. Nhờ đó, chỉ trong 2 năm (2000-2001), Công ty Điện lực 1 đã thực hiện vượt trước thời gian được giao một năm và hoàn trả tổng số vốn gần 400 tỷ đồng, nhiều điện lực đã phấn đấu thực hiện đạt 100% số xã có giá bán điện dưới 700đ/kWh. Do đó Công ty Điện lực 1 đã được Tổng công ty Điện lực Việt Nam đánh giá là Công ty dẫn đầu toàn ngành, được nhân dân và UBND các tỉnh khen ngợi, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) tặng Cờ thi đua xuất sắc, Tổng công ty Điện lực Việt Nam tặng Bằng khen. Đặc biệt năm 2002, Công ty Điện lực 1 đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”. Phát huy những thành tích đã đạt được, Công ty tiếp tục tích cực thực hiện công tác tiếp nhận và hoàn trả vốn lưới điện trung áp nông thôn còn lại và tính đến hết năm 2006, Công ty đã tiếp nhận xong 1.388 công trình với 1.381 km đường dây, 1.410 trạm biến áp, tổng giá trị còn lại bàn giao 255 tỷ đồng.

 

Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ năm 2004, Công ty đã chủ động triển khai thực hiện thành công nhiều dự án hợp tác với nước ngoài như liên doanh sản xuất tủ bảng điện với Công ty Điện lực Hà Nam - Trung Quốc, hợp tác kinh doanh với Công ty OMNI - Hàn Quốc về lắp ráp công tơ điện tử, với Viện nghiên cứu thuỷ tinh của CHLB Nga về dự án Thuỷ tinh cách điện, liên doanh với Công ty Điện lực Vân Nam - Trung Quốc thành lập Công ty TNHH đầu tư Điện lực Việt Trung ... Các dự án trên đến nay đều đi vào hoạt động tốt, là những bước đi tạo đà cho hướng hợp tác quốc tế sau này.

 

Những thành tích nổi bật từ năm 2008 - 2013

 

Trong điều kiện nhu cầu sử dụng điện trên địa bàn quản lý ngày càng tăng cao, vượt xa năng lực cung ứng của Công ty. Nguồn điện luôn bị thiếu lại vừa phải tiếp tục hoàn thành việc đưa điện về vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh có địa hình rừng núi hiểm trở, giao thông khó khăn phức tạp. Đồng thời, sau khi tiếp nhận và hoàn trả vốn lưới điện trung áp nông thôn, tiếp nhận lưới điện hạ áp và quản lý bán điện đến hộ nông dân với mức giá không vượt quá giá trần Nhà nước quy định thì khối lượng đường dây và trạm biến áp phải quản lý tăng rất lớn cùng với sự biến động của giá cả thị trường tăng cao là những khó khăn và thách thức lớn. Đứng trước thực tế lưới điện nông thôn được tiếp nhận rất cũ nát, tỷ lệ tổn thất điện năng rất cao, khối lượng đường dây và trạm biến áp phải quản lý tăng rất lớn, yêu cầu phải sửa chữa, cải tạo và nâng cấp trong khi nguồn vốn hạn hẹp, nên ngay từ giai năm 2008-2010, Tổng công ty đã tập trung nhiều giải pháp để thực hiện kế hoạch đề ra. Kết quả đạt được tính đến hết năm 2009 hết sức khả quan: đã tiếp nhận được 2.500 xã với 32.476 km đường dây hạ áp, 2.447.593 công tơ 1 pha và 6.228 công tơ 3 pha, giá trị còn lại của tài sản tiếp nhận là 779,7 tỷ đồng. Toàn bộ 23/23 Điện lực tỉnh đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Tiêu biểu là các Điện lực Nam Định, Quảng Ninh, Sơn La, Tuyên Quang và Bắc Kạn tính đến hết năm 2009 đã hoàn thành 100% khối lượng công việc của cả năm 2010, vượt kế hoạch được giao trước thời hạn được giao 01 năm. Riêng Điện lực Bắc Ninh – Đơn vị Anh hùng thời kỳ đổi mới, là đơn vị thí điểm đầu tiên trên cả nước, đã được thực hiện hoàn thành xuất sắc trước khi triển khai đề án tiếp nhận lưới điện hạ áp và quản lý bán điện đến hộ nông thôn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và của Công ty Điện lực 1. Đến năm 2010, các đơn vị còn lại cũng đã hoàn thành khối lượng công việc vượt trước thời gian kế hoạch đề ra, toàn Tổng công ty đã hoàn thành xong công tác tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn với các xã ngoài dự án REII vượt trước thời gian kế hoạch 3 tháng, góp phần tích cực vào cuộc vận động xây dựng nông thôn mới hiện nay mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ phát động. Đặc biệt, từ khi có quyết định của Bộ Công Thương thành lập Tổng công ty Điện lực miền Bắc năm 2010, tuy sức ép về cung ứng điện phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, sản xuất và đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhưng bên cạnh mục tiêu đưa điện về miền núi, vùng sâu, vùng xa, dọc hơn 1.400 km đường biên giới với Trung Quốc và gần 2.000 km với Lào, năm 2013, EVN NPC cũng đã hoàn thành đưa điện lưới quốc gia tới huyện đảo Cô Tô, giúp nhân dân địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đánh bắt và nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, phát triển du lịch dịch vụ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, toàn vẹn lãnh thổ vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

 

 

Nhờ những giải pháp căn cơ, có tính chiến lược và sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Tổng công ty nên kết quả sản xuất kinh doanh của EVN NPC có mức tăng trưởng khá và toàn diện. Nếu năm 2008, điện thương phẩm đạt 14.628,89 triệu kWh, thì năm 2013 lên tới hơn 33.574,54 triệu kWh, tăng 11.52% so với cùng kỳ năm 2012; mức tăng trưởng bình quân hàng năm trên 13,58%. Về doanh thu, năm 2008 đạt 10.715,5 tỷ đồng, đến năm 2013, đạt 46.769 tỷ đồng, tăng 1,25% so với kế hoạch. Riêng giá bán bình quân năm 2008 ở mức 732,49 VNĐ/kWh, thì năm 2013 đạt 1.393 đ/kWh (vượt 8,7 đ/kWh so với kế hoạch EVN giao và tăng 126,88 đ/kWh so với năm 2012). Đối với chỉ tiêu tổn thất điện năng, từ năm 2008 đến hết năm 2013, liên tục các năm đều hoàn thành tốt kế hoạch giảm tổn thất điện năng được giao, bình quân hàng năm giảm xấp xỉ 0,14% so với kế hoạch được giao. Năm 2013 thực hiện đạt 7,75% (thấp hơn cùng kỳ năm 2012 là 0,29% và thấp hơn kế hoạch EVN giao 0,22%).

 

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

KH EVN giao

TH năm 2013

TH/KH 2013

So sánh 2013/2012

Thực hiện năm 2012

Thương phẩm

Tr.kWh

33.370,00

33.574,54

100,61%

111,52%

30.105,30

Tổn thất

%

7,90

7,75

-0,15

-0,29

8,04

Giá bình quân

đ/kWh

1.384,30

1.393,00

8,70

126,88

1.266,12

  Doanh thu

Tỷ đồng

46.194,09

 46.769,38

101,25%

122,70%

38.116,96

 

Sản xuất kinh doanh phát triển, đời sống tinh thần của gần 3 vạn CBCNV được cải thiện và ngày càng nâng cao, Tổng công ty và các đơn vị thành viên có điều kiện củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể, đồng thời dành hàng chục tỷ đồng thúc đẩy các phong trào thi đua, làm tốt các công tác từ thiện xã hội, trong đó, thực hiện nhiều chương trình có ý nghĩa chính trị xã hội to lớn như: Chương trình 30a, giúp các huyện nghèo thuộc các tỉnh Lai Châu và nhiều địa phương khác; tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao; quyên góp ủng hộ các quỹ từ thiện, đồng bào bị thiên tai bão lụt; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại các địa phương...

 

Với thành tích đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, Tổng công ty Điện lực miền Bắc đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành và địa phương ghi nhận, phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”; tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì Ba; nhiều Huân chương Lao động và Bằng khen, cờ thì đua xuất sắc…

 

Có thể khẳng định, 45 năm xây dựng và phát triển, từ Công ty Điện lực trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu quốc gia hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện năng, EVN NPC luôn giữ vững truyền thống đoàn kết nhất trí, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và các mục tiêu chính trị được giao. Tổng công ty Điện lực miền Bắc thực sự đóng vài trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của miền Bắc, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo an sinh xã hội; nơi nuôi dưỡng, ươm mầm, bổ sung nhiều cán bộ cấp cao cho Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành và địa phương, góp phần đắc lực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nguyễn Đừng


Tin liên quan:

Tag:

| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang