Theo Bộ NNPTNT, thị trường chè nguyên liệu Thái Nguyên và Lâm Đồng trong tháng 11 tiếp tục duy trì sự ổn định. Tại Thái Nguyên, giá chè xanh búp khô hiện vẫn ở mức 100.000 đồng/kg; chè cành chất lượng cao 180.000 đồng/kg; chè xanh búp khô (đã sơ chế loại 1) 130.000 đồng/kg. Tại Bảo Lộc (Lâm Đồng), giá chè nguyên liệu (búp tươi) sản xuất chè xanh loại 1 ổn định ở mức 7.500 đồng/kg; chè nguyên liệu sản xuất chè đen 3.500 đồng/kg.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas) cho biết: Năm nay, xuất khẩu (XK) chè có sự thay đổi rõ rệt khi những tháng đầu năm không được thuận lợi, song về cuối năm, tính đến hiện tại có thể coi là tương đối tốt. XK khởi sắc ở nhiều thị trường. Điểm đáng chú ý là, năm nay ngành chè đã đạt được kết quả tích cực, chuyển sang đẩy mạnh đưa sản phẩm chè xâm nhập, tiêu thụ tại thị trường Mỹ. Tại đây, chè Việt chủ yếu phát triển dòng sản phẩm cao cấp.
Số liệu sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, tháng 10/2016, Việt Nam đã xuất khẩu 12 nghìn tấn chè, trị giá 22,9 triệu USD, giảm 1,2% về lượng nhưng tăng 10% về trị giá so với tháng 9/2016 – đây là tháng thứ hai liên tiếp sản lượng chè xuất khẩu suy giảm – tính chung 10 tháng 2016, xuất khẩu chè đạt 106,1 nghìn tấn, trị giá 175,8 triệu USD, tăng 7% về lượng và tăng 3,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2015.
Mặt hàng chè của Việt Nam đã xuất khẩu sang 15 quốc gia trên thế giới, trong đó Pakistan là thị trường chủ lực, chiếm 31% tổng lượng chè xuất khẩu, đạt 28,6 nghìn tấn, trị giá 58,8 triệu USD, tăng 1,62% về lượng nhưng giảm 8,85% về trị giá so với cùng kỳ.
Đứng thứ hai sau Pakistan là Indonesia chiếm 15%, đạt 14,3 nghìn tấn, trị giá 12,7 triệu USD, tăng 122,08% về lượng và tăng 101,08% về trị giá – đây cũng là thị trường có tốc độ tăng trưởng khá.
Đứng thứ ba là thị trường Nga, đạt 13,6 nghìn tấn, trị giá 19 triệu USD, tăng 6,32% về lượng nhưng giảm 1,71% về trị giá so với cùng kỳ.
Nhìn chung, 10 tháng đầu năm nay xuất khẩu chè sang các thị trường có tốc độ tăng trưởng dương chiếm phần lớn, 53% và xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ tăng mạnh vượt trội, tăng 907,81% về lượng và tăng 613,81% về trị giá, tuy lượng xuất chỉ có 1,2 nghìn tấn, trị giá 1,5 triệu USD. Ngược lại, xuất khẩu sang thị trường với tốc độ tăng trưởng âm chiếm 47% và xuất sang Đức giảm mạnh nhất, giảm 68,84% về lượng và giảm 64,26% về trị giá.
Đáng chú ý, thời gian này lượng chè xuất khẩu sang một số thị trường khởi sắc như: Malaysia tăng 61,13%, Thổ Nhĩ Kỳ tăng 76,27%
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chè 10 tháng 2016
Nguồn: VITIC