Về các giải pháp chính sách, đối với thuế TNDN (sửa đổi, bổ sung Nghị định số218/2013/NĐ-CP): Thực hiện không tính thuế TNDN đối với chênh lệch do đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa; tăng thời gian miễn thuế đối với thu nhập được miễn thuế của DN từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng, bán sản phẩm thử nghiệm: từ 01 năm lên 03 đến 05 năm.
Về thuế GTGT (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 209/2013/NĐ-CP), ô tô dùng để làm mẫu và lái thử cho kinh doanh ô tô được khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào (trước đó số thuế giá trị gia tăng đầu vào tương ứng với phần trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng không được khấu trừ).
Về quản lý thuế (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 83/2013/NĐ-CP), mở rộng diện được áp dụng biện pháp ưu tiên trong quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đối với doanh nghiệp có qui mô đầu tư lớn, dự án trọng điểm quốc gia, dự án đầu tư ưu tiên được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận trước khi cấp phép đầu tư; Nâng mức doanh thu doanh nghiệp được khai thuế GTGT theo quý từ 20 tỷ đồng lên 50 tỷ đồng qua đó giảm số lần khai thuế GTGT từ 12 lần/năm còn 04 lần/năm;Doanh nghiệp khai thuế và quyết toán thuế TNDN theo năm (không phải khai thuế theo quý như trước đây), theo đó giảm số lần khai thuế TNDN từ 5 lần/năm còn 01 lần/năm…
Cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho DN
Trên cơ sở nhận định rõ những nguyên nhân, tồn tại ảnh hưởng đến thời gian để thực hiện thủ tục khai, nộp thuế của doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đề xuất với Chính phủ, với Quốc hội và triển khai thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó tập trung vào công tác cải cách, giảm thời gian khai, nộp thuế của doanh nghiệp mà theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế số giờ khai, nộp thuế của doanh nghiệp năm 2014 là 537 giờ.
Cụ thể, về các giải pháp thuộc thẩm quyền Quốc hội (giảm được gần 90 giờ), tại Luật số 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015, trong đó bãi bỏ quy định về khống chế đối với chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh qua đó giảm trên 08 giờ/năm.
Kể từ ngày 01/7/2015, bãi bỏ quy định phải nộp Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra hoặc mua vào khi lập hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp, qua đó giảm được hơn 80 giờ/năm thời gian thực hiện thủ tục khai thuế.
Đối với các giải pháp thuộc thẩm quyền của Chính phủ (giảm 88.36 giờ), Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 để áp dụng ngay trong năm 2014 các giải pháp: Mở rộng đối tượng được áp dụng khai thuế GTGT theo quý (thay vì kê khai theo tháng) bằng việc điều chỉnh mức doanh thu khai thuế GTGT theo quý từ dưới 20 tỷ/năm lên dưới 50 tỷ/năm. (giảm được 29,36 giờ và giảm kê khai thuế GTGT là 8 lần/năm).
Bãi bỏ quy định việc doanh nghiệp phải điều chỉnh thuế GTGT đầu vào khi đến kỳ hạn thanh toán chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. (giảm được 12 giờ)
Sửa đổi quy định để doanh nghiệp thực hiện tạm nộp thuế TNDN theo quý, cuối năm quyết toán (hiện đang khai, tạm nộp thuế TNDN theo quý và quyết toán năm) (giảm được 47 giờ/năm và giảm số lần khai thuế thu nhập doanh nghiệp là 4 lần/năm).
Về các giải pháp thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính (giảm 201.5giờ), Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 sửa đổi, bổ sung 07 Thông tư với nhiều giải pháp như: Sửa đổi các chỉ tiêu trên Bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ bán ra, mua vào…(giảm 132 giờ).
Như vậy, thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ giảm được: 370 giờ/năm, thời gian khai thuế của doanh nghiệp còn 167 giờ/năm (tương đương mức bình quân của các nước ASEAN 6).
Bộ Tài chính cho rằng với các giải pháp, chính sách cải cách trong những năm qua và định hướng đổi mới trong thời gian tới cũng như công tác triển khai, thực hiện đã và sẽ ngày càng góp phần tạo thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh.
Nguồn: Báo điện tử Chính phủ