Với hơn 2 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 850 nghìn ha đất trồng cây hằng năm, và hơn 1,15 triệu ha đất trồng cây lâu năm, hiện toàn vùng Tây Nguyên có hơn 582 nghìn ha cà-phê, trong đó Đác Lắc là địa phương có diện tích cà-phê lớn nhất với hơn 202 nghìn ha. Tây Nguyên đã trở thành một trong những vùng chuyên canh có năng suất cà-phê cao nhất thế giới, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất, xuất khẩu cà-phê đứng hàng thứ hai thế giới, trong đó đứng đầu về sản xuất, xuất khẩu cà-phê vối.
Nhờ lợi thế về đất đai, cộng với thực hiện tốt biện pháp thâm canh, nhất là áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào trồng, chăm sóc, bón phân, tưới nước cho cây cà-phê, nhiều hộ trồng cà-phê đã đầu tư thay dần các vườn cà-phê già cỗi, hết chu kỳ kinh doanh, năng suất thấp, kém hiệu quả kinh tế bằng các giống cà-phê mới. Đồng thời, để tiết kiệm nước tưới, nhiều nhà vườn đã trồng các loại cây che bóng, chắn gió trong vườn cà-phê; quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP) trên cây cà-phê cũng được triển khai; hàng chục nghìn nông hộ tham gia sản xuất cà-phê bền vững, hay các chương trình sản xuất cà-phê có chứng nhận theo bộ quy tắc của Utz Certify, 4C,… để gia tăng giá trị của sản xuất. Nhờ vậy, năng suất cà-phê ngày càng tăng, bình quân đạt từ 2.350 đến 2.500 kg cà phê nhân/ha, cho sản lượng mỗi năm từ 1,3 triệu tấn cà-phê nhân. Do xây dựng mô hình sản xuất tốt, nhiều hộ sản xuất cà-phê cho thu nhập từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng/ha. Ngoài cây cà-phê, các tỉnh Tây Nguyên còn có các loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao, như: Hồ tiêu với tổng diện tích hơn 71 nghìn ha, cao-su gần 252 nghìn ha, điều 74 nghìn ha…
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, quá trình phát triển nông nghiệp ở khu vực này nói chung và phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày hàng hóa nói riêng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vị trí của vùng. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ; chất lượng và giá trị thu được chưa cao, nhất là các mặt hàng nông sản chủ lực như cà-phê, hồ tiêu, cao-su, điều chủ yếu xuất khẩu thô, giá trị gia tăng thấp, khiến cho thu nhập của người dân chưa cao.
Ngoài nguyên nhân khách quan do biến đổi khí hậu làm hạn hán, lũ lụt tăng mạnh, không theo quy luật, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, có thể thấy nguyên nhân chủ quan là do cơ chế, chính sách tạo bứt phá cho nông nghiệp Tây Nguyên chưa được điều chỉnh phù hợp, kịp thời với thực tiễn, nhất là các chính sách về đất đai, đầu tư, tín dụng cho phát triển nông nghiệp. Thêm vào đó, tình trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp không theo quy hoạch, trồng cây công nghiệp theo phong trào dẫn đến tình trạng “trồng, chặt, chặt trồng” thường xuyên diễn ra.
Để Tây Nguyên trở thành vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn của cả nước, theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các bộ, ngành, cần phối hợp các địa phương xây dựng chương trình hỗ trợ, cơ chế chính sách đặc thù, tạo thuận lợi cho khu vực này xây dựng một số mô hình liên kết sản xuất, kinh doanh công nghệ cao. Trong đó, các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư đóng vai trò nòng cốt xây dựng, thiết kế các chương trình nghiên cứu, phát triển nông nghiệp Tây Nguyên mang tính tổng thể cả về khoa học quản lý, cơ chế, chính sách, thị trường và kỹ thuật công nghệ; quy hoạch vùng trồng, vùng sản xuất nông nghiệp đi liền với tổ chức nông dân, tổ chức thị trường gắn với công nghệ cao, tạo dựng nền nông nghiệp hữu cơ. Các doanh nghiệp đóng vai trò hạt nhân để đưa các ngành hàng chủ lực của Tây Nguyên như cà-phê, hồ tiêu, ca-cao, hạt điều… tham gia vào chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu. Còn các địa phương khu vực Tây Nguyên với vai trò “chủ nhà” cần chú trọng tới quản lý sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt, tránh tình trạng phá vỡ quy hoạch các loại cây trồng chủ lực như hiện nay. |
Nguồn Nhandan.com.vn