Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030
Ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Chiến lược đưa ra ba quan điểm phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ nhất, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn mới; là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, địa phương và doanh nghiệp; là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia; góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, phát triển đồng bộ, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các hệ thống đổi mới sáng tạo ngành, vùng, trong đó lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh, Nhà nước thực hiện định hướng, điều phối, kiến tạo môi trường thể chế, chính sách thuận lợi cho hoạt động hiệu quả của toàn hệ thống.
Thứ ba, kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa phát triển năng lực nội sinh với tận dụng tối đa cơ hội, nguồn lực bên ngoài, ưu tiên tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng nhanh chóng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, đặc biệt là chủ động, tích cực tiếp cận và khai thác triệt để cơ hội và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng phục vụ thiết thực đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội, đồng thời chú trọng nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng để tiến tới sáng tạo, tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở những lĩnh vực then chốt mà Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng và lợi thế. Chiến lược cũng khẳng định: KH - CN và ĐMST góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)...
Những hệ lụy của khoa học công nghệ đối với môi trường và phát triển bền vững
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, bên cạnh những tiện ích, nâng cao năng suất, chất lượng cho doanh nghiệp, nâng tầm trải nghiệm của người dân khoa học công nghệ cũng gây ra những hệ lụy khó lường đến môi trường và phát triển bền vững.
Theo TS. Nguyễn Thị Cẩm Tú - Khoa Luật và Lý luận chính trị, Trường Đại học Thủy lợi, sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đã và đang đưa xã hội loài người chuyển sang một nền văn minh mới, mà ở đó nhờ có khoa học và công nghệ con người có thể phát huy cao độ năng lực sáng tạo trong sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống… điều đó càng chứng tỏ, khoa học và công nghệ phát triển giúp con người ngày càng nối dài khả năng nhận thức và khả năng chinh phục tự nhiên.
Những thành tựu của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi cơ bản các nhân tố sản xuất như hệ thống máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hệ thống phương tiện hỗ trợ sản xuất ngày càng hiện đại hơn; thay đổi cơ cấu ngành nghề, thay đổi phương thức lao động… Chính vì thế, với thành quả của các cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật (cho tới nay là khoa học và công nghệ) được đánh dấu bằng sự phát minh ra động cơ hơi nước… cho đến Internet vạn vật kết nối, AI, Big Data… đã giúp con người tạo ra một lượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thế hệ trước cộng lại.
Tuy nhiên, bên cách những thành tựu mà khoa học và công nghệ mang lại là những mặt trái của nó đối với môi trường gây ảnh hưởng lớn đến phát triển bền vững. Những thành tựu của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ đã giúp con người sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, song một lượng lớn tài nguyên bị khai thác và một khối lượng lớn chất thải được đưa vào môi trường đã dẫn đến các nguồn tài nguyên ngày càng bị cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, khan hiếm nước sạch, suy giảm sự đa dạng sinh học…
Việc phát minh ra động cơ đốt trong và các thiết bị lò đốt sử dụng than đá đã mở ra một cuộc cách mạng mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, song chính lúc đó chưa ai biết những phát minh này sẽ dẫn đến thảm họa nóng lên của bầu khí quyển Trái Đất do hiệu ứng nhà kính ngày một tăng lên.
Hiện nay, những hệ lụy của điện nguyên tử, của công nghệ sinh học, của công nghệ hóa học ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường. Chẳng hạn như danh mục thuốc bảo vệ thực vật được cấm sử dụng ngày càng dài hơn, mặc dù đây là những phát minh được chào đón như những vị cứu tinh của nhân loại như: các chất Monitor, Wofatox, DDT, E05… Ngày nay, thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mang lại là không thể phủ nhận. Trọng điểm của cuộc cách mạng công nghiệp lần 4 là trí tuệ nhân tạo, giúp con người phát minh máy móc thay cho con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó là những hệ lụy của cách mạng khoa học và công nghệ lần tư đến sự phát triển bền vững. Bởi vì, trong thời đại mà tự động hóa lên ngôi thì tài nguyên thiên nhiên cũng bị khai thác quá mức, nên việc bị cạn kiệt là điều không thể tránh khỏi.
Hệ lụy đó ảnh hưởng lớn đến mức độ cân bằng sinh thái, bảo vệ sự phát triển bền vững của nhân loại. Hơn thế nữa, trong tương lai, sẽ còn nhiều những phát minh khoa học, nhân loại sẽ phải tốn nhiều thời gian, tiền bạc và công sức để tìm hiểu và quản trị những tác động tiêu cực đến môi trường. Điều này là do nhà khoa học ít khi đồng thời là nhà môi trường.
Chính vì vậy, có thể nói việc xây dựng chính sách về bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững cũng phải cần tính đến để kịp thời có phương án khắc phục những hậu quả, rủi ro tác động tới môi trường do những phát minh trong khoa học, công nghệ đem lại. Đồng thời, chính phủ cũng cần có những biện pháp chế tài xác đáng đối với các lĩnh vực khoa học công nghệ có khả năng chứa đựng nhiều rủi ro đến môi trường. Do vậy, hành động của nhiều chính phủ ra sắc lệnh cấm các nghiên cứu về nhân bản người bằng sinh sản vô tính là một hành động mang tính nhân văn vì cộng đồng và là một giải pháp phòng ngừa rất tích cực trong chiến dịch bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
Về phía TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, phát triển khoa học công nghệ rất quan trọng tuy nhiên việc vận dụng tăng trưởng chưởng kép chuyển đối số và chuyển đổi xanh còn nhiều vấn đề.
Theo thông kê của Tập đoàn Google cho thấy, lượng khí nhà kính do công ty thải ra đã tăng gần 50% trong 5 năm qua. Chỉ riêng năm 2023, tổng lượng phát thải của Google đã tăng 13% so với năm trước đó. Nguyên nhân chính được cho là do mức tiêu thụ điện năng tăng cao tại các trung tâm dữ liệu và lượng khí thải từ chuỗi cung ứng. Điều này đặt ra thách thức lớn cho mục tiêu đạt PTR0 vào năm 2030 của công ty.
Tương tự, Tập đoàn Microsoft cũng ghi nhận sự gia tăng trong lượng khí thải CO2, với mức tăng gần 30% kể từ năm 2020. Điều này gây khó khăn cho kế hoạch đạt mức phát thải carbon âm vào năm 2030 và loại bỏ hoàn toàn lượng carbon đã thải ra từ trước đến nay vào năm 2050.
“Từ 2 ví dụ trên cho thấy việc chuyển đổi số đi liền với chuyển đổi xanh là thách thức rất lớn”, TS. Lê Xuân Sang nhấn mạnh.
Giải pháp phát triển xanh, phát triển bền vững
Để giảm thiểu tác động tiêu cực của khoa học công nghệ đến môi trường, TS. Nguyễn Thị Nga - Giảng viên Khoa Luật và Lý luận chính trị, Trường Đại học Thủy lợi đề xuất, trong thời gian tới, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khuyến khích các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển ngành công nghệ môi trường, có chính sách ưu đãi cao về đất đai, thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ môi trường. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực công nghệ môi trường.
Khuyến khích hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ bảo vệ môi trường, phát triển thị trường dịch vụ bảo vệ môi trường, quản lý và bảo vệ tài nguyên. Tăng cường xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, bao gồm: nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, chế tạo thiết bị đến cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng tài nguyên. Triển khai các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học trọng điểm phục vụ cho hoạt động bảo vệ môi trường bao gồm: công nghệ xử lý nước thải (nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải bệnh viện, nước thải của các bãi chôn lấp), công nghệ xử lý chất thải rắn, công nghệ chế tạo các thiết bị xử lý môi trường cần được nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các cơ quan chức năng nhanh chóng, hoàn chỉnh hiện đại hóa hệ thống theo dõi, kiểm soát, phân tích đánh giá các yếu tố môi trường trên toàn quốc. Đây phải là một dự án lớn của quốc gia có đủ nguồn vốn, sử dụng công nghệ tiên tiến nhất. Đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả hoạt động chính phủ điện tử ngành Tài nguyên và Môi trường để đáp ứng yêu cầu trong quản lý nhà nước về môi trường đảm bảo hoạt động điều hành tác nghiệp, trao đổi thông tin trong nội bộ ngành, giữa trung ương và địa phương; cung cấp kịp thời và minh bạch thông tin cho người dân. Giúp người dân tham gia đánh giá hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước môi trường nhằm kiểm soát tốt hơn vấn đề khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên nói riêng và bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước nói chung vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo Vietq.vn