Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khối lượng gạo xuất khẩu tháng 6/2019 ước đạt 625 nghìn tấn với giá trị đạt 275 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 3,39 triệu tấn và 1,46 tỷ USD, giảm 2,8% về khối lượng và giảm 19% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.
Giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2019 đạt 429 USD/tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2018.
Giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm ngoái
Nhìn vào giá trị xuất khẩu gạo qua từng tháng trong nửa đầu năm 2019 có thể thấy, so với năm 2018, xuất khẩu gạo Việt Nam sụt giảm mạnh vào các tháng đầu năm 2019, đặc biệt là tháng 4, tháng 5 thấp hơn gần 100 triệu USD so với giá trị xuất khẩu đạt được trong năm 2018.
Tuy nhiên, bước sang tháng 6, giá trị xuất khẩu gạo đã có sự ổn định trở lại. Mặc dù, giá trị xuất khẩu gạo ước tính đạt được trong tháng 6 là 275 triệu USD, vẫn thấp hơn kết quả đạt được trong tháng 5/2019 là 293 triệu USD nhưng đã gần bằng giá trị xuất khẩu gạo trong tháng 6/2018 (281 triệu USD).
Về thị trường xuất khẩu gạo, Philippines đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2019 với 35,7% thị phần. Xuất khẩu gạo sang thị trường này trong 5 tháng đầu năm 2019 đạt 1,06 triệu tấn và 423,3 triệu USD, gấp gần 4 lần về khối lượng và gấp 3,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.
Tỷ trọng xuất khẩu gạo Việt Nam sang các thị trường trong 5 tháng đầu năm 2019
Cũng theo Bộ NN&PTNT, 5 tháng đầu năm 2019, các thị trường có giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh là Angola gấp 4,3 lần so với cùng kỳ năm ngoái; HongKong tăng 64,5%; Bờ Biển Ngà tăng 61,2%, Ả rập xê út tăng 53,9 và Nga tăng 40,8%.
Tại thị trường trong nước, giá lúa, gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) giảm trong tháng qua. Thị trường tiếp tục trầm lắng do nhu cầu nhập khẩu hạn chế cùng với lo ngại về nguồn cung vụ hè thu chất lượng không cao.
Theo hệ thống cung cấp giá tại địa phương, tại Vĩnh Long, lúa IR50404 vụ Hè Thu giảm 150 đ/kg xuống còn 4.050 đ/kg; gạo IR50404 ở mức 12.000 đ/kg; gạo jasmine ở mức 14.000 đ/kg. Tại An Giang, gạo IR50404 không đổi ở mức 10.000 – 11.000 đ/kg; gạo chất lượng cao ở mức 13.000 đ/kg; gạo thơm đặc sản jasmine ở mức 13.500 đ/kg. Tại Kiên Giang, lúa IR50404 giảm 600 đ/kg xuống còn 4.900 đ/kg; lúa OM 4218 giảm 200 đ/kg xuống còn 5.400 – 5.600 đ/kg; lúa OM 6976 ở mức 5.500 – 5.600 đ/kg; lúa Jasmine giảm 200 đ/kg xuống 5.900 – 6.000 đ/kg.
Tính trong 6 tháng đầu năm, giá lúa, gạo trong nước diễn biến tăng đối với lúa Đông Xuân và giảm đối với lúa Hè Thu. Cụ thể, lúa thường tại An Giang, Vĩnh Long tăng 300 – 500 đ/kg trong vụ Đông Xuân, và giảm 150 đ/kg với vụ Hè Thu đang thu hoạch. Dự báo giá lúa, gạo trong nước tiếp tục giảm do nhu cầu tiêu thụ yếu, chất lượng lúa hè thu kém nên không thu hút khách hàng.
Theo BizLive