Ông Nguyễn Hoàng nhấn mạnh, những năm gần đây, nhờ tác động của các Nghị quyết và định hướng chiến lược của Đảng, Chính phủ, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã có bước tiến rõ rệt. Nếu như trước đây, cả nước chỉ có một số ít doanh nghiệp (DN) sản xuất linh kiện, phụ tùng quy mô nhỏ, thì nay con số này đã tăng lên hơn 2.000 DN. Riêng địa bàn TP. Hà Nội, hiện có khoảng hơn 900 DN CNHT, với trên 320 DN có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lực cung ứng vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới.
Không chỉ nhiều hơn về số lượng, mà các DN đã len chân vào tham gia sản xuất đa dạng lĩnh vực: từ sản xuất linh kiện cơ khí chính xác, điện tử, nhựa, cao su, đến vật liệu mới, sản phẩm công nghệ lưỡng dụng cho cả dân sự và quốc phòng. Nhiều ngành, lĩnh vực CNHT có tỷ lệ nội địa hóa cao tạo lợi thế cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu.
Đặc biệt, một số DN trong nước hiện hoàn toàn có thể đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe nhất của các tập đoàn công nghệ hàng đầu, cả về chất lượng sản phẩm lẫn thời gian giao hàng, nên đã vươn ra thị trường quốc tế, trở thành đối tác trong chuỗi cung ứng của những tập đoàn lớn. Có DN đã tham gia sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ với đối tác Nhật Bản, xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ và châu Âu. Điều này chỉ có được khi DN chấp nhận đầu tư lớn vào công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại và đặc biệt là chú trọng đào tạo đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề.
Dù vậy, xét về mặt bằng chung, số lượng DN đạt được chuẩn quốc tế còn khiêm tốn. Đây là thách thức lớn, đòi hỏi phải có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và nhất quán hơn.
Thành phố Hà Nội hiện có hơn 900 doanh nghiệp CNHT, với hơn 320 DN có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lựccung ứng cho các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam và trên thế giới
Phó Chủ tịch Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI) chia sẻ, việc Trung ương ban hành "Bộ tứ chiến lược" gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả; Nghị quyết số 66-NQ/TW về xây dựng và thực thi pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi; cùng với Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các văn bản quyết định đã trở thành kim chỉ nam, định hướng phát triển cho Đất nước và các DN Việt Nam, trong đó có khối DN CNHT và công nghệ cao.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT nhằm tăng cường các chính sách hỗ trợ DN CNHT, mở rộng đối tượng, đơn giản hóa thủ tục, ưu đãi thuế và chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực…
Tuy nhiên, trên thực tế triển khai, DN vẫn gặp khó trong việc tiếp cận ưu đãi, đặc biệt là liên quan đến đất đai, vốn vay và các thủ tục hành chính. Điều mà các DN mong đợi là có một Luật về CNHT hoàn chỉnh, để là khung pháp lý toàn diện, đồng bộ và ổn định. Khi đã có luật, các cơ chế ưu đãi sẽ mang tính bắt buộc và thống nhất, không còn phụ thuộc quá nhiều vào từng Nghị định hay Quyết định hành chính. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi trường đầu tư, sản xuất bền vững, thu hút cả DN trong và ngoài nước.
Ngoài ra, một điểm nghẽn lớn hiện nay chính là vốn cho DN phát triển công nghệ cao và CNHT. Đó là, khi so sánh với các nước trong khu vực, chúng ta thấy rõ bất lợi, trong đó, về lãi suất cho vay phát triển CNHT ở Việt Nam hiện cao gần gấp đôi so với Thái Lan hay Malaysia. Điều này khiến chi phí vốn đội lên, sản phẩm sản xuất ra khó cạnh tranh về giá, cho dù chất lượng không hề thua kém. Do vậy, Chính phủ và hệ thống ngân hàng cần thiết kế một cơ chế tín dụng ưu đãi riêng cho CNHT. Bên cạnh đó, cần có các quỹ phát triển dài hạn, hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ.
Khi đề cập đến vai trò của các tổ chức Hiệp hội, Hội liên kết, ông Nguyễn Hoàng cũng cho rằng, liên kết là yếu tố sống còn. Một DN riêng lẻ, đặc biệt là DN vừa và nhỏ, khó có thể đáp ứng toàn bộ yêu cầu khắt khe của tập đoàn đa quốc gia. Nhưng nếu các DN liên kết lại trong cùng một khu công nghiệp, trong một tổ hợp CNHT, thì có thể chia sẻ chi phí hạ tầng, tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao và cùng nhau đáp ứng đơn hàng lớn.
Cùng với các giải pháp về hạ tầng và nhà xưởng đạt chuẩn quốc tế thì sẽ hình thành hệ sinh thái công nghiệp hiện đại, nhằm nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, cũng như bảo đảm chuẩn mực quốc tế. Với mô hình này, Việt Nam không chỉ tham gia mà còn có thể chiếm vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu./.
Lê Minh