Nhiều lợi ích
Theo bà Phan Thị Thanh Xuân - Tổng thư ký Hiệp hội Da - giày - túi xách Việt Nam (Lefaso), CVĐ đã được triển khai sâu rộng trong ngành da giày, có những DN đã gắn bó với CVĐ nhiều năm, như Công ty TNHH Thời trang Tuấn Việt, Công ty TNHH Bình Tiên Đồng Nai với thương hiệu giày Bitis, Công ty CP Cao su Hà Nội, Công ty TNHH MTV Giày Thượng Đình, Công ty CP Giày Vĩnh Phú.... Hưởng ứng CVĐ, nhiều DN đã tham gia Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi, hải đảo, thậm chí đầu tư mở cửa hàng, siêu thị với quy mô lớn giới thiệu và bán giày dép sản xuất trong nước.
Đã có những DN từ xuất khẩu 100% chuyển hướng một phần sang sản xuất sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Công ty TNHH Thời trang Tuấn Việt là một ví dụ - từ một DN chuyên sản xuất hàng gia công và hàng FOB cho nhà nhập khẩu giày dép nước ngoài, tham gia vào thị trường trong nước, DN dành riêng một phân xưởng cho việc thử nghiệm thương hiệu giày Tuvi’s. Sau 3 năm, thương hiệu này của Tuấn Việt đã có chỗ đứng trên thị trường. Tương tự, Công ty CP Giày Việt cũng đã được người tiêu dùng trong nước biết đến với 4 thương hiệu: Vũ Chầm, Vina Giày, Giày Việt, Vinagico.
Theo đánh giá của chuyên gia, CVĐ đã mang lại lợi ích lớn khi giúp DN ngành da giày có thêm một phương thức tiếp cận, tìm hiểu, nắm bắt thị hiếu hiệu quả để điều chỉnh chất lượng, mẫu mã sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, qua đó giúp DN có thêm thị phần, mở rộng sản xuất, đặc biệt khi xuất khẩu có biến động thì thị trường nội địa sẽ là đối trọng giúp DN giữ cân bằng trong sản xuất.
CVĐ còn mang lại giá trị lớn hơn khi đã thay đổi được thị hiếu của người tiêu dùng, tư tưởng sính hàng ngoại nhập dần bị mai một và hàng Việt Nam ngày càng được tin dùng. Chính điều này đã giúp DN da giày thuận lợi hơn trong việc đầu tư cho thị trường trong nước, tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng nội địa.
Cần hơn nữa sự liên kết
CVĐ đã được ngành da giày hưởng ứng mạnh mẽ nhưng trong quá trình thực hiện các DN còn gặp không ít rào cản. Về điều này bà Xuân chia sẻ: Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn là một trong những hoạt động chủ đạo của CVĐ, thu hút sự tham gia đông đảo của các DN. Tuy nhiên, mỗi đợt đưa hàng về nông thôn chỉ được thực hiện tập trung trong một thời gian ngắn, DN không có đủ thời gian giới thiệu sản phẩm, trong khi hàng hóa đòi hỏi phải có sự trao đổi, luân chuyển liên tục. Thời gian triển khai mỗi chuyến hàng ngắn cũng chưa để lại nhiều dấu ấn cho người tiêu dùng.
Chi phí cũng là vấn đề khiến các DN ‘phân vân’, bởi khi tham gia chương trình DN mất rất nhiều phí vận chuyển, lưu kho bãi.… Tình trạng đưa hàng hóa về nông thôn, vùng sâu, vùng xa được thực hiện đơn lẻ như hiện nay đã không đem lại hiệu quả cho DN. Để có chi phí phù hợp, DN buộc phải đưa hàng hóa chất lượng không cao, gây ấn tượng không tốt cho hàng Việt về nông thôn. “Ở đây hoàn toàn là vấn đề chi phí, bản thân DN cũng muốn tối đa hóa lợi nhuận và bán được nhiều sản phẩm nhưng chi phí như thế nào để hợp lý, điều này DN đơn lẻ không thể làm được,” bà Xuân nói.
Thực tế, DN không ngại đưa hàng chất lượng tốt về nông thôn, tuy nhiên để DN đủ lực làm được điều này cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hỗ trợ ở đây không phải là hỗ trợ bằng tiền trực tiếp mà có thể hỗ trợ về giới thiệu quảng bá sản phẩm, xây dựng kho bãi.... “Quan trọng nhất là hỗ trợ kết nối các DN với nhau cùng thực hiện vận chuyển hàng hóa và chia sẻ gánh nặng,” bà Xuân nhấn mạnh.
Với những trở ngại còn tồn tại, bà Xuân cũng cho rằng: Trong thời gian tới, Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn cần được xây dựng có tính chiến lược hơn. Ví dụ, các chuyến hàng sẽ tổ chức theo nhóm sản phẩm, liên tục để tạo ra sự nhận biết và vị thế trong người tiêu dùng. Bản thân sự cam kết của DN tham gia chương trình cũng cần dài hơi hơn ít nhất từ 3-5 năm, phải đi với chương trình một thời gian dài mới đánh giá được hiệu quả.
Nhà nước cũng cần tập trung hỗ trợ những gì DN thực sự cần, đặc biệt thông qua chương trình, các đơn vị quản lý nhà nước và DN nên thiết lập một hệ thống có thể kết nối được với hệ thống phân phối, hậu cần ở địa phương để tạo ra khu vực kho trạm, giúp DN có điểm chuyển hàng, lưu kho thường xuyên. “Tức là các bên phải ngồi lại với nhau để thống nhất địa phương, sở công thương, DN làm gì để tạo ra một hệ thống. Người tiêu dùng sẽ là đối tượng hưởng lợi lớn nhất của sự kết hợp nhuần nhuyễn ấy và chương trình cũng sẽ đạt mục tiêu”, bà Xuân chia sẻ.
Nguồn: Ven.vn