Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI) cũng cho rằng, nhiều năm qua, hàng loạt hạn chế đến từ cơ chế, chính sách quản lý cũng như từ phía bản thân doanh nghiệp (DN) đã khiến ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cơ khí (CK) phát triển khá mờ nhạt, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ngay tại thị trường trong nước, sản phẩm CK cũng không có được nhiều thị phần, phải tự vận động, phát triển mà chưa nhận được sự hỗ trợ hữu hiệu từ hệ thống chính sách của Nhà nước để có nhiều đơn hàng từ đầu tư công như các nước khác. Điều này dẫn đến nhiều DN cơ khí vốn đã thiếu đơn hàng lại còn bị thua thiệt ngay trên sân nhà. Có rất nhiều dự án lớn về xây dựng, giao thông, các công trình thủy lợi, dầu khí, kinh tế biển, đóng tàu, ô tô, xe máy… vẫn chủ yếu sử dụng sản phẩm phụ trợ CK nhập ngoại, hoặc do các doanh nghiệp FDI đảm nhiệm.
Trước thực trạng đó, thời gian gần đây, Nhà nước cũng như các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan đã dành nhiều sự quan tâm nhằm thúc đẩy, phát triển lĩnh vực CNHT nói chung và công nghiệp phụ trợ CK nói riêng, sao cho xứng tầm là những trụ cột sản xuất vững mạnh, từng bước làm chủ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa; tạo động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh tế khác phát triển, qua đó trực tiếp và gián tiếp tạo việc làm cho hàng triệu lao động. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển ngành CK Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Theo đó, mục tiêu tổng quát của Chiến lược này là đến năm 2035, ngành CK Việt Nam được phát triển với đa số các chuyên ngành có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi giá trị toàn cầu, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, cạnh tranh bình đẳng trong hội nhập quốc tế; đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỷ luật và có năng suất cao, chủ động trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản phẩm CK, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản phẩm CK của thị trường trong nước…
Bên cạnh đường lối, cơ chế chính sách như vậy, để ngành CNHT cơ khí thực sự phát triển, đi vào thực chất, các chuyên gia còn chỉ ra nhiều vấn đề xác đáng mà ngành CNHT cơ khí cần tập trung, khắc phục vượt qua mọi khó khăn.
Theo PGS.TS Lê Thu Quý, Giám đốc Trung tâm Đào tạo – Viện Nghiên cứu Cơ khí (Bộ Công Thương) cho biết, để phát triển ngành CK cũng như lĩnh vực phụ trợ CK Việt Nam cần xác định nhu cầu thị trường, chỉ rõ những khoảng trống để phát triển những lĩnh vực mà ngành có thể cạnh tranh được. Ngoài việc tạo thị trường cho DN, các cơ chế, chính sách phải linh hoạt để khuyến khích DN đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa. Đặc biệt phải chú trọng phát triển lĩnh vực phụ trợ CK luyện kim, linh kiện phụ trợ ô tô, xe máy, sản phẩm CNHT Cơ khí gia dụng và dụng cụ lao động...
Các doanh nghiệp CNHT Cơ khí đang dần tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu
Chuyên gia kinh tế TS.Vũ Đình Ánh cũng góp ý, để Chiến lược phát triển ngành CK Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 đạt được mục tiêu cần có phải có chính sách, cụ thể tăng tỉ lệ nội hóa ngành CK, tăng giá trị sản xuất sản phẩm phụ trợ CK trong nước. Đơn cử như đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam cần hướng tới chuỗi giá trị gia tăng cao hơn.
Về phía DN, đại diện Thaco Auto cho biết, một trong những điểm sáng về phát triển CNHT có thể kể đến là, sau gần 20 năm đầu tư, DN đã tạo nên sự chuyển biến tích cực cho chính mình và ngành CNHT của đất nước, vừa gia tăng giá trị sản xuất trong nước và tỷ lệ nội địa hóa, vừa đẩy mạnh xuất khẩu linh kiện phụ tùng. Cụ thể, để phát triển sản xuất thúc đẩy phát triển lĩnh vực phụ trợ CK của DN, Công ty đã chủ động đẩy mạnh nền tảng công nghệ hiện đại và chuỗi giá trị trọn gói từ nghiên cứu, phát triển sản phẩm đến sản xuất và cung ứng. Đây là cơ sở quan trọng để Công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tạo lợi thế cạnh tranh.
Để thúc đẩy phát triển CNHT Cơ khí hơn nữa, ông Đào Phan Long- Chủ tịch Hiệp hội DN Cơ khí Việt Nam (VAMI) cũng cho rằng, Công nghiệp phụ trợ CK Việt Nam muốn có nhiều đơn hàng, tham gia chuỗi xuất khẩu cần phải đổi mới thiết bị, công nghệ, trình độ KHCN để có thể chế tạo các sản phẩm phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy theo đơn đặt hàng của đối tác nước ngoài với chủng loại đa dạng. Trong tương lai, ngành CK đòi hỏi sự phát triển về nguyên vật liệu, khuôn mẫu, gia công chế tạo, không chỉ gia công cắt gọt đơn thuần, nên các DN buộc phải liên kết, đi sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thông tin báo cáo hoạt động ngành CK mới đây từ VAMI cho biết, cơ hội cho ngành phụ trợ CK trong thời gian tới là rất nhiều. Trước hết, thị trường cho máy móc thiết bị của Việt Nam rất lớn, đến giai đoạn năm 2030 khoảng hơn 300 tỷ USD. Trong đó, giá trị máy móc thiết bị cho các công trình công nghiệp như: Nhiệt điện, thủy điện, hóa chất, khai thác, chế biến khoáng sản khoảng 120 tỷ USD; thiết bị và vật tư cho xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc khoảng 20 tỷ USD; hệ thống tàu điện ngầm khoảng 10 tỷ USD; công nghiệp ô tô khoảng 130 tỷ USD..., theo đó cơ hội của lĩnh vực phụ trợ CK Việt Nam là rất lớn...
Nam Hà