Thứ Sáu, 03/05/2024 04:31:11 GMT+7

Tin đăng lúc 16-12-2015

Lượt xem: 4479

TPP: Phải nhìn nhận từ nhiều góc độ

Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên thái Bình Dương (TPP) vừa được 12 nước kết thúc đàm phán là một bước ngoặt đối với tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu. Là một thành viên của TPP, Việt Nam được đánh giá sẽ được hưởng lợi cả về mặt kinh tế và chiến lược, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức đáng kể.
TPP: Phải nhìn nhận từ nhiều góc độ
Ảnh minh họa.

TPP được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu thế kỷ 21. TPP đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, DNNN… Với các kết quả đàm phán đã đạt được, TPP sẽ là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và lưu ý tới trình độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia Hiệp định, đồng thời kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại tất cả các nước TPP; tạo việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh, thúc đẩy minh bạch hàng hóa, quản trị tốt, đồng thời củng cố các tiêu chuẩn về lao động và môi trường.

 

Trong tương lai gần, khi Hiệp định được các nước phê chuẩn và có hiệu lực, Việt Nam có thể  hưởng lợi đáng kể về tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong dài hạn, nền kinh tế cũng có tác động tốt nếu những cải cách hơn nữa về pháp lý, thể chế và hành chính được thực hiện cùng những cải tiến trong các lĩnh vực nhà nước và tư nhân. Về mặt chiến lược, Hiệp định sẽ giúp Việt Nam cải thiện vị thế của mình, đặc biệt trong tương quan đối với một số quốc gia và vùng lãnh thổ. Chẳng hạn, năm 2014, Trung Quốc chiếm gần 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam và thâm hụt thương mại lên gần 30 tỷ USD. Việc phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu từ Trung Quốc được xem là một lỗ hổng an ninh kinh tế đối với đất nước. Các quy định chặt chẽ của TPP như xuất xứ từ sợi trở đi, do đó kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế thương mại so với Trung Quốc.

 

Thời gian gần đây, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đều có chung nhận định rằng, “Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất” trong số các nước thành viên TPP. Ngân hàng Thế giới ước tính, đến năm 2030, TPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng khoảng 8%. Một tổ chức nghiên cứu khác dự báo, đến năm 2025, GDP của Việt Nam tăng thêm 11%, tương đương 36 tỷ USD so với khi chưa có Hiệp định.

 

Một ý nghĩa quan trọng khác của TPP đối với Việt Nam là sự tham gia sâu hơn của đất nước vào mạng lưới sản xuất khu vực và toàn cầu. FDI được mong đợi sẽ chuyển từ các thành viên TPP vào Việt Nam, giúp cải thiện vị trí của đất nước bằng cách mở rộng sản xuất và tạo điều kiện cho việc thành lập các khu công nghiệp, đặc biệt là các ngành Việt Nam có lợi thế so sánh như dệt may, da giày. Tuy nhiên, tác động này có thể bị hạn chế nếu Việt Nam không hành động đủ nhanh để thu hút các nguồn đầu tư trước và trong trường hợp TPP được mở sang các lân cận nước.

 

Việc cắt giảm 18.000 hàng rào thuế quan đối với các sản phẩm công - nông nghiệp, TPP sẽ tạo ra những lợi thế và thách thức cho Việt Nam. Thị trường rộng mở, đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, sẽ đẩy nhanh xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh như dệt may, da giày, thủy hải sản, nông lâm sản. Nhưng ngành chăn nuôi sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn do khả năng cạnh tranh yếu. Tuy nhiên, ngành này có thời gian 10 năm để tăng cường “sức đề kháng” trước khi phải đối đầu với sản phẩm của những nước có ngành chăn nuôi hiện đại. Các ngành sản xuất như sữa, ngô, đậu tương và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi có thể phải đối mặt với thách thức đáng kể.

 

Dệt may được coi là ngành được hưởng lợi lớn nhất của Việt Nam. Các chuyên gia ước tính, kim ngạch xuất khẩu dệt may có thể tăng gấp đôi và điều quan trọng sẽ giải quyết tốt vấn đề thất nghiệp, vì cứ xuất khẩu được 1 tỷ USD sẽ tạo thêm 250.000 việc làm các loại.

 

Bên cạnh những thuận lợi lớn, TPP cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, đó là, mặc dù xuất khẩu tăng trưởng nhanh, nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu chưa mang tính hiệu quả, chủ yếu xuất khẩu hàng có công nghệ thấp, thâm dụng lao động như hàng may mặc, giày dép, đồ nội thất... Xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công đã khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng hóa trở nên yếu. Quy mô doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ, không thâm nhập được vào hệ thống phân phối chính, khiến các doanh nghiệp xuất khẩu trở nên không bền vững, không chi phối được thị trường. Tham gia TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Ngành chăn nuôi sẽ đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt.

 

Việt Nam cũng sẽ gặp phải thách thức cạnh tranh, có thể dẫn tới phá sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu, không được chuẩn bị kỹ cho hội nhập; đặc biệt là việc giảm thu ngân sách từ giảm thuế nhập khẩu sau khi thực hiện TPP. Hơn nữa, việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh. Thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Sản phẩm nông nghiệp, doanh nghiệp và nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, nhất là các hàng nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.

 

Các nước tham gia TPP có xu hướng đàm phán nhằm giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa. Khi đó, hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến hơn với yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm, trong khi đây là điểm yếu của sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Hàng nhập khẩu tăng, xuất khẩu không tìm được đường vào thị trường các nước sẽ khiến nông nghiệp đứng trước những khó khăn. Để bảo hộ hàng hóa trong nước, Việt Nam tất yếu cũng sẽ áp dụng các hàng rào phi thuế quan. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có hoặc kém, các biện pháp vệ sinh dịch tễ không hiệu quả sẽ khiến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng thấp. Một điểm nữa là, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ nội khối, không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Đây là khó khăn đối với doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam, nhất là ngành xuất khẩu hàng may mặc và da giày. Việt Nam phải có hướng dẫn cung cấp thông tin đầy đủ cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận được những cơ hội của thị trường mới. Trong đó, những thông tin mang tính đặc thù liên quan đến tập quán, văn hóa, những yếu tố thị trường và cả những thông tin về chính sách vĩ mô, phải có cơ chế thông tin xuyên suốt, vận dụng một cách linh hoạt và nhanh nhạy để bảo đảm cho khả năng tiếp cận thị trường của doanh nhiệp Việt Nam mà chúng ta đều hiểu còn hạn chế rất nhiều về nguồn thông tin khi tiếp cận thị trường đó.

 

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập rất nhanh, đồng thời thế giới cũng có những khung khổ toàn cầu hóa rất phát triển và đa dạng, thì bên cạnh việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan, các nước cũng tập trung tăng cường hơn nữa những hàng rào phi thuế quan, đặc biệt những hàng rào kỹ thuật. Chính vì vậy, cần có sự phối hợp giữa khu vực Nhà nước với doanh nghiệp để giải quyết những trở ngại liên quan tới các hàng rào phi thuế quan và đặc biệt giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường bền vững, tránh được những tranh chấp thương mại, những vụ kiện thương mại. Do đó, về phía các cơ quan nhà nước, cần triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động của TPP đối với các lĩnh vực hàng hóa, đầu tư, dịch vụ… để có cơ sở xây dựng và điều chỉnh chính sách dài hạn. Việt Nam cũng cần xây dựng chính sách phát triển các ngành công nghiệp mà Việt Nam dự kiến sẽ có tiềm năng và lợi thế trong khối TPP… và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực. Đồng thời, việc xây dựng các chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất cả các ngành của nền kinh tế thông qua nâng cấp năng lực, công nghệ, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực tương ứng, đa dạng hóa đổi mới sản phẩm cũng là một nhiệm vụ cần thiết.

 

Các doanh nghiệp Việt Nam, trước tiên cần chủ động tìm hiểu các thông tin liên quan về hiệp định. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề cho nguồn nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, các doanh nghiệp trong nước cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác. Về dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của Hiệp định TPP, để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực.

 

Tóm lại, TPP có thể sẽ tạo ra một số tác động tích cực đối với Việt Nam, nhưng điều này không nên được kỳ vọng quá mức và cơ hội nên được đánh giá cùng với thách thức. Vấn đề quan trọng đặt ra cho Việt Nam là liệu nó có thể tiến hành một cách kịp thời và có hiệu quả các cải cách trong nước, cả về kinh tế và thể chế, để đáp ứng những thách thức và tận dụng cơ hội mà Hiệp định đem lại hay không?

 

 Hà Xuân - Công nghiệp & Tiêu Dùng


| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang