Thứ Sáu, 22/11/2024 10:02:35 GMT+7
Lượt xem: 1392

Tin đăng lúc 29-09-2023

Phát triển CNHT ô tô tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Những năm gần đây, ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô mặc dù đã được chú trọng và có những thành quả nhất định, song vẫn bị đánh giá là phát triển chưa như kỳ vọng do chậm cả về số lượng lẫn chất lượng so với nhiều quốc gia trong khu vực. Vậy, Việt Nam có thể học được gì từ kinh nghiệm phát triển CNHT ô tô của một số nước có nền công nghiệp ô tô phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan…?
Phát triển CNHT ô tô tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
THACO là một trong số ít doanh nghiệp của Việt Nam đã chủ động nhiều loại linh kiện, phụ tùng ô tô, bên cạnh đó còn là nhà cung ứng linh kiện cho các DN lớn tại VN như Huyndai, Toyota... đồng thời, xuất khẩu đi các thị trường trọng điểm như: Mỹ, Australia, Anh, Italy, Nga, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Kinh nghiệm từ Hàn Quốc

 

Đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã vạch ra chiến lược chọn một số tập đoàn mạnh để phát triển kinh tế quốc gia theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế hàng nhập khẩu. Sự hợp tác giữa Chính phủ với các tập đoàn, công ty thuộc sử hữu gia đình - Chaebol - đã đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và tạo nên những thành công đáng kinh ngạc của Hàn Quốc.

 

Cùng với đó, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật đặc biệt về phát triển phụ tùng và vật liệu, quy định các ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất trong các nhóm ngành ưu tiên và các chương trình hỗ trợ của Chính phủ cho các doanh nghiệp này. Tiếp đó là ban hành Luật xúc tiến thầu phụ, trong đó chỉ định rõ các doanh nghiệp lớn phải mua ngoài, không được tự sản xuất các phụ tùng, vật liệu theo danh mục sản phẩm quy định, qua đó, buộc các tập đoàn lớn phải chuyển phần sản xuất linh kiện, phụ tùng sang các doanh nghiệp nhỏ để tạo sự lan toả và gia tăng tính cạnh tranh, đồng thời đẩy mạnh phát triển CNHT.

 

Năm 2005, Chính phủ Hàn Quốc triển khai Chiến lược phát triển nguyên liệu và linh phụ kiện nhằm phát triển CNHT trong công nghiệp ô tô và công nghiệp điện tử, trong đó chỉ định rõ Samsung và Lucky Gold Star là các doanh nghiệp hạt nhân, với một số nhà sản xuất chuyên cung ứng linh phụ kiện phải phát triển các sản phẩm này để thay thế nhập khẩu. Chương trình này bắt buộc các doanh nghiệp hạt nhân phải cam kết mua linh kiện của các doanh nghiệp cung ứng này. Chiến lược được đánh giá thành công, vì các ngành CNHT ở Hàn Quốc đã phát triển rất nhanh. Hiện nay, công nghiệp vật liệu và phụ tùng của Hàn Quốc đã chuyển sang giai đoạn đòi hỏi giá trị gia tăng rất cao trong sản phẩm như hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp.

 

Hàn Quốc cũng đã xây dựng hàng chục Trung tâm hỗ trợ doanh nghiêp với cơ sở vật chất, máy móc thiết bị tiên tiến để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình sản xuất, tham gia vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất hoàn chỉnh.

 

Chính phủ Hàn Quốc cũng đưa ra kế hoạch dài hạn để sản xuất một mẫu xe riêng của Hàn Quốc, trong đó cũng hướng đến phát triển ngành công nghiệp bộ phận và linh kiện bằng cách xây dựng một đặc khu công nghiệp cho các nhà cung cấp.

 

Để bảo hộ nền công nghiệp ô tô trong nước, bên cạnh chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, chính sách ưu đãi thuế cho các nhà máy ô tô mới đưa vào sản xuất, Hàn Quốc cũng áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế khác đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu ô tô…

 

Kinh nghiệm từ Nhật Bản

 

Năm 1935, Nhật Bản ban hành Luật về ngành sản xuất xe hơi nhằm bảo hộ và ưu tiên phát triển ngành công nghiệp trong nước, chủ yếu qua ưu đãi thuế cho các hãng sản xuất trong nước và hạn chế hoạt động của các thương hiệu nước ngoài. Chính sách này đã đặt nền móng cho một trong những giai đoạn quan trọng nhất góp phần vào vị thế dẫn đầu của các hãng xe Nhật. Các nhà sản xuất ô tô hàng loạt bắt đầu tăng trưởng đều đặn, giúp cho việc phát triển các ngành CNHT trở thành mục tiêu hàng đầu.

 

Vào thập niên 1950, Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp Nhật Bản công bố hướng dẫn khuyến khích Nhật Bản thu hút các công nghệ sản xuất mới thông qua hợp tác với các công ty nước ngoài, như Austin, Hillman hay Renault. Chính sách mới đã phát huy hiệu quả, chỉ sau vài năm, các thương hiệu nội địa như Nissan, Isuzu hay Hino đã sớm học hỏi công nghệ để tự mình sản xuất với tỉ lệ nội địa 100%.

 

Chính phủ Nhật Bản cũng đưa ra các chính sách ưu tiên phát triển những sản phẩm cụ thể, đặc biệt là công nghiệp cơ khí và điện tử, trong đó chú trọng đến các sản phẩm CNHT. Có thể kể đến hai đạo luật quan trọng là Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích công nghiệp cơ khí và Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích ngành công nghiệp điện tử.

 

Theo đó, Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo vốn đầu tư cần thiết cho việc trang bị thiết bị nhằm hợp lý hoá việc sản xuất và nhiều ưu đãi khác. Đi kèm hai đạo luật này là danh mục chi tiết các sản phẩm được ưu tiên phát triển. Danh mục này rất chi tiết và cụ thể, trong đó chú trọng đến CNHT, từ nguyên liệu đầu vào, máy móc sản xuất, các linh kiện quan trọng cho đến cả chu trình gia công và các thiết bị kiểm tra đầu cuối. Danh mục được xem xét, đề xuất và cập nhật liên tục bởi Ban Thẩm tra Công nghiệp cơ khí và Ban Thẩm tra Công nghiệp điện tử. 

 

Các chính sách trên đã giúp ngành CNHT của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc về công nghiệp ô tô.

 

Kinh nghiệm của Thái Lan

 

Ở khu vực ASEAN, Thái Lan là một trong những nước tích cực nhất trong phát triển CNHT ô tô. Sự định hướng phát triển CNHT ở Thái Lan được thúc đẩy rất sớm.

 

Từ đầu những năm 1960, Thái Lan đã chủ trương ưu tiên phát triển ngành công nghiệp ô tô thành một ngành kinh tế trọng điểm. Thời điểm này, các ngành công nghiệp Thái Lan nói chung và ngành công nghiệp ô tô nói riêng còn khá nhỏ bé, số lượng các doanh nghiệp công nghiệp trong nước không nhiều và chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với năng lực sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu. Trong giai doạn từ 1960 – 1970, Chính phủ Thái Lan đã đưa ra những chính sách thu hút FDI, đặc biệt là từ các hãng ô tô lớn trên thế giới.

 

Do quy mô thị trường nhỏ, chính sách nội địa hóa không đạt được kết quả như mong đợi cho nên thay vì tập trung nguồn lực cho phát triển ngành công nghiệp ô tô, Thái Lan đã chuyển hướng sang xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thúc đẩy phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô và thực hiện các chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô theo hướng mềm dẻo hơn. 

 

Đầu thập kỷ 1980, được sự  hỗ trợ của Nhật Bản, Chính phủ Thái Lan đã điều chỉnh và xây dựng chiến lược toàn diện cho phát triển ngành công nghiệp ô tô. Trong đó, đẩy mạnh thu hút FDI vào các ngành CNHT và công nghiệp ô tô cùng với việc gỡ dần bảo hộ thị trường nội địa thông qua các quy định chặt chẽ về tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp ô tô. 

 

Chính phủ Thái Lan cho phép thành lập các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) tập trung tại Bangkok và các tỉnh phụ cận khu vực miền trung, ban hành các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN, CCN này. Bên cạnh đó, Thái Lan thực hiện chính sách theo hướng linh hoạt hơn thông qua việc yêu cầu các hãng phải đạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nội địa hóa theo lộ trình. Những chính sách này đã tạo ra một làn sóng mới đầu tư vào phát triển CNHT ô tô. 

 

Đặc biệt, trong thời gian này, Chính phủ Thái Lan đã chú trọng tới việc hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV trong nước tham gia vào mạng sản xuất chi tiết, phụ tùng, linh kiện ô tô, khuyến khích và hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả là Thái Lan đã hình thành được các CCN ô tô tại Bangkok và các tỉnh miền trung như tỉnh Smaut Parakan. Bên cạnh đó, Thái Lan còn khuyến khích phát triển CCN ở các làng xã và thị trấn nhỏ. 

 

Cùng với đó, Thái Lan đã xây dựng chương trình làng nghề truyền thống. Các làng nghề truyền thống sẽ chọn ra một sản phẩm truyền thống có năng lực cạnh tranh để chuyên môn hóa sản xuất. Chính phủ sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện kết nối các sản phẩm phẩm đó với các doanh nghiệp CNHT và công nghiệp ô tô.

 

Giai đoạn từ 1987-1999, nắm bắt xu thế các hãng ô tô lớn chuyển dịch một số khâu sản xuất đến các nước có chi phí nhân công rẻ hơn để giảm chi phí, giá thành sản xuất, Chính  phủ Thái Lan đã có những chính sách ưu đãi, xây dựng một môi trường đầu tư đáng tin cậy để thu hút các hãng ô tô lớn của Nhật Bản, Mỹ và châu Âu. Cùng với tổ chức JICA của Nhật Bản, Thái Lan tiếp tục xây dựng và triển khai quy hoạch tổng thể phát triển  ngành CNHT ô tô. Thái Lan đã thành lập các KCN ở các tỉnh phía bắc và phía đông, phát triển hệ thống đường cao tốc và cơ sở hạ tầng giao thông, cảng biển v.v...  tại khu vực phía đông và đông bắc. 

 

Nhiều dự án sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô đã được thành lập ở đây, hình thành các CCN ô tô mới. Nhờ đó, Thái Lan đã thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô ở các vùng, CCN miền đông. Đầu tư vào CNHT ô tô đã có sự lan tỏa từ miền trung sang miền bắc và miền đông Thái Lan trong những năm 1990. Các mạng sản xuất CNHT cho ngành công nghiệp ô tô tiếp tục được mở rộng. 

 

Đặc biệt, để bảo hộ cho ngành CNHT ô tô trong nước còn non trẻ, Thái Lan đã mở rộng các hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu các loại linh kiện sản phẩm đầu vào. Cùng với đó, thực hiện các chương trình hỗ trợ, xúc tiến phát triển CNHT và được chia làm 4 giai đoạn: 1992–1993 (phát triển cơ sở dữ liệu để hỗ trợ liên kết ngành tập trung vào ngành điện tử, ô tô, máy móc thiết bị và đào tạo nhà cung cấp), 1993–1994 (hỗ trợ kỹ thuật, tổ chức hội thảo và kết nối doanh nghiệp), 1994–1995 (phát triển cơ sở dữ liệu, đào tạo và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế), 1995–1997 (tham gia hội thảo quốc tế và tổ chức hội chợ).

 

Từ năm 2000 đến nay, Chính phủ Thái Lan đặc biệt quan tâm tới việc đẩy mạnh phát triển CNHT ô tô định hướng xuất khẩu, đẩy mạnh tự do hóa, xóa bỏ các rào cản về tỷ lệ nội địa hóa, quy định xuất xứ sản phẩm.

 

Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

 

Cần có những chính sách ưu đãi hấp dẫn, rõ ràng, dễ tiếp cận cho các doanh nghiệp CNHT ô tô

 

Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy, hầu hết các cường quốc trong ngành sản xuất ô tô đều dành nhiều nguồn lực cho việc tạo dựng mạng lưới CNHT vững mạnh với trình độ công nghệ cao, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ô tô. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam đó là:

 

+ Cần xây dựng chiến lược phát triển ngành CNHT ô tô tổng thể với lộ trình và bước đi thích hợp. Phải có quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành CNHT ô tô.

 

+ Thu hút đầu tư có chọn lọc, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI, hướng đầu tư trực tiếp cả trong và ngoài nước vào các lĩnh vực CNHT ô tô; Cam kết thực thi hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán, ổn định, minh bạch nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển ngành CNHT ô tô, qua đó thu hút đầu tư từ các hãng sản xuất ô tô lớn nước ngoài, khuyến khích họ tìm kiếm các đối tác cung ứng trong nước.

 

+ Thúc đẩy đầu tư liên kết, liên doanh trong học hỏi công nghệ nâng cao năng lực sản xuất trong lĩnh vực CNHT ô tô. Có thể lựa chọn một số doanh nghiệp tiềm năng trong khu vực tư nhân làm hạt nhân, hỗ trợ và khuyến khích vai trò đầu tàu của các doanh nghiệp này trong việc thiết lập các vùng, CCN lớn về ô tô, trong đó hội tụ các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành CNHT, nhằm hình thành các mạng lưới sản xuất và vùng cung ứng.

 

+ Sớm hoàn thiện và triển khai Luật Phát triển công nghiệp, đồng thời ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi tín dụng, mặt bằng… hấp dẫn, rõ ràng, dễ tiếp cận cho các doanh nghiệp CNHT và sản xuất lắp ráp ô tô.

 

+ Đặt mục tiêu cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô gia tăng tỷ trọng sử dụng các linh kiện sản xuất trong nước thay vì nhập khẩu, để dần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành sản xuất ô tô. Đồng thời là cầu nối, tạo mối quan hệ hợp tác giữa các hãng xe với các nhà cung ứng linh liện nội địa, giúp các doanh nghiệp CNHT nội địa tham gia được vào các khâu phát triển sản phẩm của các hãng sản xuất lắp ráp ô tô./.

 

Quỳnh Anh


| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang