Thứ Hai, 29/04/2024 19:13:23 GMT+7

Tin đăng lúc 23-09-2023

Lượt xem: 639

Đến Kim Hỷ vương vấn nếp nhà sàn cổ

Khi chúng tôi đặt chân đến trung tâm xã Kim Hỷ, huyện Na Rì (Bắc Kạn) cũng là lúc những tia nắng ban mai mùa thu ấm áp của một ngày mới bừng lên trên bản nhỏ vùng cao. Những mái nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương mờ chưa tan hết bên các triền đồi và những con đường nhỏ uốn cong mềm mại hiện lên trong lớp sương mờ. Ðó là chứng nhân bao đời nơi vùng đất ôm ấp, lưu giữ, trao truyền bản sắc văn hóa dân tộc và cũng là sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút khách phương xa.
Đến Kim Hỷ vương vấn nếp nhà sàn cổ
Những ngôi nhà sàn cổ của người Tày ở Bản Vèn, xã Kim Hỷ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn

Những ngôi nhà giữa đại ngàn

 

Chúng tôi đến Kim Hỷ không phải bởi sự hiếu kỳ mà với mong muốn được trải nghiệm trên những bản làng còn lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc. Người Tày nơi đây giữ nếp nhà sàn như giữ lại hồn cốt của dân tộc mình. Những ngôi nhà sàn lợp mái ngói âm dương kề vai nhau yên bình dưới chân núi Phja Cắm, mặt hướng ra cánh đồng Bản Than hiền hòa, chở che cho biết bao thế hệ con người sinh ra và lớn lên nơi này. Một đời sống sinh động hiện diện qua những chiếc xe máy ngược xuôi trên đường chở thóc từ ruộng về bản, những sàn ngô vàng óng, tiếng gà, lợn trong chuồng tạo nên hợp âm rộn ràng, gợi sự no ấm.

 

Nằm trong vùng lõi khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, xã Kim Hỷ là một trong số ít địa phương của tỉnh Bắc Kạn lưu giữ được những nếp nhà sàn cổ của đồng bào Tày. Theo thống kê của Ủy ban nhân dân xã Kim Hỷ, toàn xã có 123 ngôi nhà sàn truyền thống, chủ yếu ở các thôn Bản Vèn, Bản Kẹ, Bản Vin, Kim Vân. Hầu hết những ngôi nhà có tuổi đời từ 50 năm đến 200 năm.

 

Bỡ ngỡ xen lẫn niềm háo hức, tôi theo chân anh Nguyễn Duy Hoán, trưởng thôn Bản Vèn đến thăm nhà cụ Nguyễn Duy Am (88 tuổi) chủ nhân ngôi nhà sàn cổ chừng 200 tuổi đã trải qua nhiều thế hệ chủ nhân. Ngồi khoanh chân trên tấm cót mát rượi trải giữa nhà, tôi lắng nghe cụ Am chậm rãi chia sẻ. Người Tày quan niệm ngôi nhà sàn không chỉ là nơi ăn, chốn ở mà còn biểu trưng cho giá trị thẩm mỹ, chứa đựng ý nghĩa văn hóa của dân tộc.

 

Ðể hoàn thành ngôi nhà sàn, trước hết chủ nhà cần tìm những người thợ tài tình, khéo léo trong vùng đến thiết kế, đo đạc, đồng thời nhờ những người thanh niên khỏe mạnh trong làng, trong xã đến góp sức, khiêng gỗ từ trong núi về đục đẽo, dựng nhà, bưng ván, lợp ngói. Ngôi nhà sàn của cụ Am rộng 8 sải tương đương 150 m2, có 4 gian chính, 1 gian phụ và hai chái. Giữa nhà là bếp lửa vuông, dọc phía bên phải nhà là chạn để bát đũa, tủ đựng thức ăn, gạo rượu, nồi chảo, gia vị. Khoảng sàn trống giữa bàn thờ và bếp lửa là chỗ linh thiêng của ngôi nhà. Trong nhà còn bài trí phòng ngủ, chỗ ngồi tiếp khách, nơi bảo quản lương thực… Có bảy bậc cầu thang bắc từ mặt đất lên trên nhà. Tại đây, bốn thế hệ trong gia đình sống quây quần bên nhau đầm ấm.

 

Trong cuộc trò chuyện, ông Nguyễn Duy Móng (Bí thư Ðảng ủy xã Kim Hỷ) con trai cụ Am chia sẻ, trước đây khi ngôi nhà thay ngói, ông và các anh em trong nhà đã tự tay làm mái ngói âm dương. Phải qua rất nhiều khâu làm thủ công từ chọn lựa đất, nhào nặn tới đóng khuôn, nung ngói mới có được viên ngói đẹp và bền bỉ. Thế nên, dù nhiều trận mưa lớn, giông lốc đi qua, nhưng những ngôi nhà vẫn yên ả, mái ngói ít bị xê dịch, vững chãi cùng thời gian.

 

Nếp nhà sàn truyền thống có không gian thoáng đãng, gần gũi, kiến trúc tiện lợi, mùa hè thoáng mát, mùa mưa khô ráo, đông đến nhờ có bếp lửa vuông giữa nhà lại ấm cúng biết bao. Dịp Tết, các nhà đụng lợn, mùa cốm hay tết cơm mới, tiếng chày giã bánh lại vang trên nhà sàn, anh em trong bản quây quần bên nhau vui vẻ, thân tình.

 

Ngôi nhà của cụ Am chính là chứng nhân của thời gian. Cuộc đời cụ gắn với ngôi nhà sàn bao nhiêu năm là từng ấy thời gian cụ được nhìn lớp con cháu sinh ra, trưởng thành trong nếp nhà thân thuộc. Cụ Am chẳng nhớ nổi thời trẻ làm trưởng làng đã bao nhiêu lần đón dâu từ bản gần bản xa về, biết bao dấu chân ghi dấu trong những ngôi nhà sàn ngày vui, những bài “Thơ lẩu” cất lên cùng lời trao gửi tốt lành. Bản làng quây quần, đoàn kết, ánh mắt cụ Am lấp lánh niềm tự hào khi nhắc đến những thế hệ con cháu của Bản Vèn, Bản Kẹ hiếu học, thành tài, giúp ích cho quê hương.

 

Sống trong bản làng, anh Nguyễn Duy Vất ở Bản Vèn vẫn cặm cụi níu giữ điệu hát then, hát ru Tày. Mỗi dịp nhà nào trong vùng tổ chức lễ đầy tháng cho em bé, gia chủ lại mời anh đến dự và cất lời ru Tày gửi gắm những ước mong tốt đẹp cho các bé, tiếng ru ấm áp, ngân nga bay bổng bên cánh võng. Lời hát nuôi dưỡng tâm hồn đứa trẻ suốt tuổi ấu thơ và theo cả cuộc đời để những bước chân khôn lớn dù đi xa muôn nơi vẫn muốn quay trở về bản làng yêu dấu: Ứ noọng nòn đắc nòn đí, nòn tắng/ Pí au qua nòn tắng a au luồm/ Ðảy mè luồm pích đeng, đảy mè mèng pích cắm… (Dịch nghĩa: Con ơi con ngủ cho ngoan/ Ngủ đợi mẹ đi ruộng lấy con muỗm/ Ðược con muỗm cánh đỏ, được con muỗm cánh tím…

 

Anh Vất lớn lên trên nhà sàn cùng tiếng ru của dân tộc Tày với nhiều kỷ niệm, thế nhưng ngôi nhà của anh giờ nhà đã mục, gia đình đành phải chuyển xuống dựng nhà giữa cánh đồng. Cũng vì lo ngôi nhà đổ bóng râm xuống ruộng hàng xóm bởi vậy không thể dựng nhà cao. Suy nghĩ và việc làm đầy nhân văn ấy có lẽ không chỉ anh Vất mà có lẽ đó là phẩm chất chung của những người ở xứ núi xinh đẹp này.

 

Cùng chung nỗi đồng cảm của anh Vất, Trưởng thôn Bản Vèn Nguyễn Duy Hoán trăn trở: “Bà con Bản Vèn rất thích ở nhà sàn truyền thống, song thời gian khiến nhiều ngôi nhà lâu năm bị mục, mọt, nên một số hộ đã dỡ đi làm kiến trúc khác”.

 

“Tuổi ấu thơ ta lớn lên ở đó”

 

Về trưa, bầu trời càng trong xanh, nắng loang khắp hẻm núi, nơi này cây cối uống nắng mưa mà lớn, vạt ngô ven đường lào xào trong gió, lộ ra những bắp ngô mẩy tròn. Thi thoảng tôi lại bắt gặp những bông hoa chuối rừng thắm đỏ, màu sắc ấy như thắp lên niềm vui cho lữ khách độc hành. Từ trên đèo nhìn sang, những ngọn núi lô nhô, phía dưới chân là bản nhỏ lẫn vào mầu xanh của cây rừng, đồng lúa đang độ chín như tấm thảm trải dọc thung lũng. Ði chừng 7 km, tôi đến thôn Kim Vân.

 

Trên đường bê-tông của thôn, đến đâu tôi cũng bắt gặp những nụ cười chào hỏi thân thiện. Tôi dừng chân bên ngôi nhà sàn được dựng cách đây hơn 70 năm của gia đình ông Nông Thiêm Tiềm (73 tuổi). Những đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi đang nô đùa trên nhà, thấy khách lạ, liền chạy xuống chân cầu thang nhanh nhảu mời tôi lên nhà. Trên mỗi bậc cầu thang nhẵn thín, ghi dấu vô kể những bàn chân lạ, chân quen. Bà Nga (58 tuổi) ở thôn Kim Vân chia sẻ, từ nhỏ bà sinh ra đã thấy những ngôi nhà sàn rất to trong bản, hồi đó bà cùng đám bạn tò mò, hiếu động chạy nhảy vui chơi thỏa thích trên những ngôi nhà rộng lớn và đó là miền ký ức đẹp thật khó phai mờ.

 

Ông Tiềm cho biết nhà sàn của ông dựng từ năm 1946, nói rồi ông hướng tay lên gác bếp, nơi cất chiếc bồ thóc gắn liền với ngôi nhà sàn này gần 40 năm, quả thực đây là chiếc bồ đan bằng tre to nhất mà tôi từng thấy. Ông bảo, đó là một trong những đồ dùng được làm từ tre do ông tự tay chẻ lạt, đan bện, bồ này chứa được 10 gánh, tương đương với ba tạ thóc. Bồ thóc đã cùng gia đình ông trải qua những mùa no, mùa đói. Từng sợi lạt đan bện vào nhau dai dẳng, bền bỉ. Dù có vật dụng khác bảo quản thóc, ngô tiện lợi hơn nhưng chiếc bồ thóc cũ vẫn được gia đình ông Tiềm cẩn thận cất giữ với mong muốn níu lại làm kỷ niệm. Những thanh gác bếp đã đen kịt bồ hóng, chứng kiến những làn khói nhọc nhằn sớm tối bay lên.

 

Qua những câu chuyện với dân bản Kim Vân, tôi được biết trong thôn Kim Vân còn nhiều ngôi nhà sàn truyền thống được các gia đình trân trọng, gìn giữ. Có thể kể đến nhà sàn có tuổi đời lâu nhất của gia đình bà Nguyễn Thị Mẹt, dựng từ năm 1936, nhưng đến nay chưa phải sửa chữa, có chăng chỉ thay ván bưng, ván dải đôi lần. Ông Ðinh Duy Thái, trưởng thôn Kim Vân cho biết cả thôn hiện nay có 66 hộ dân trong đó có 20 ngôi nhà sàn cổ còn được lưu giữ.

 

Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, chị Hoàng Minh Nhuần, cán bộ phụ trách văn hóa xã Kim Hỷ cho biết: “Hiện nay trên địa bàn xã Kim Hỷ chỉ còn khoảng 30% số nhà sàn truyền thống của dân tộc Tày. Bà con nhân dân trong xã vẫn có tinh thần, ý thức giữ gìn kiến trúc nhà sàn truyền thống, tuy nhiên, có nhiều nhà đã xuống cấp trầm trọng. Nhân dân trong bản cũng có hướng tu sửa và chuyển dần sang nhà xây vì không có gỗ để làm nhà sàn. Người dân xã Kim Hỷ mong muốn cấp trên quan tâm và có định hướng đầu tư cho xã để bà con chung sức giữ gìn, bảo tồn nét văn hóa truyền thống lâu đời của người Tày”.

 

Một số ngôi nhà sàn trải qua hàng thế kỷ đã và đang chịu đựng sự bào mòn theo thời gian, nhưng trong bản nhỏ giữa vùng núi đồi mênh mông này vẫn còn những người luôn đau đáu tìm cách giữ gìn nếp nhà sàn truyền thống, thấm đẫm văn hóa dân tộc Tày. Tạm biệt Kim Hỷ, vòng quay bánh xe trôi chầm chậm xuống núi như mặt trời đang lặn phía hoàng hôn và xa kia những nếp nhà sàn khuất sau vòng cua cùng biết bao câu chuyện ở bản còn miên man trong tâm trí tôi.

 

Theo Nhandan.vn


Tin liên quan:

Tag:

| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang