Ngành công nghiệp điện tử là trụ cột xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm liền. 6 tháng đầu năm 2025, điện tử, máy tính và linh kiện là ngành hàng lập kỷ lục xuất khẩu với kim ngạch gần 48 tỷ USD, tăng tới 40% so với cùng kỳ năm trước. Những con số ấn tượng này có sự đóng góp khổng lồ của các tập đoàn FDI như Samsung, LG, Foxconn, Intel... Tuy nhiên, một thực tế đáng suy ngẫm là tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử mới chỉ đạt khoảng 15%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 45% vào năm 2020. Điều này có nghĩa, phần lớn giá trị của những chiếc điện thoại “Made in Vietnam” không nằm ở Việt Nam.
Để tháo gỡ “nút thắt” này, Chính phủ đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ thông qua một hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện. Nền tảng là Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT, tiếp đó là Nghị quyết 115/NQ-CP năm 2020 với những mục tiêu tham vọng. Mới đây nhất, tháng 2/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định 165/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển CNHT đến năm 2030, tiếp tục khẳng định vai trò trọng yếu của lĩnh vực này. Với cách chính sách bao gồm: Miễn, giảm thuế thu nhập DN có thời hạn; ưu tiên hoàn thuế giá trị gia tăng; Hỗ trợ lãi suất vay từ các ngân hàng thương mại; tiếp cận vốn từ Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và Hỗ trợ kinh phí cho các dự án sản xuất thử nghiệm, chuyển giao công nghệ.
Về lý thuyết, đây là một “bệ phóng” vững chắc. Nhưng từ chính sách trên giấy đến hiệu quả thực tế là một khoảng cách không hề nhỏ.
Ông Nguyễn Quân, Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam cho biết: “Nếu chúng ta không có cơ chế chính sách, chúng ta không bao giờ thu hút được nguồn đầu tư. Không có nguồn đầu tư, chúng ta không thể nào phát triển được các công nghệ nguồn, công nghệ lõi; không thể xây dựng được những ngành CNHT mang tính công nghệ cao, cung cấp linh kiện, phụ tùng linh kiện và tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu của những sản phẩm công nghệ lớn của thời đại như: Công nghệ robot, công nghệ tự động hóa và những ngành CN như đường sắt cao tốc, điện hạt nhân”.
Từ góc độ của các tập đoàn FDI, rào cản lớn nhất của DN Việt không chỉ nằm ở giá cả, mà còn ở năng lực quản trị, tính ổn định về chất lượng và khả năng tham gia vào quá trình thiết kế sản phẩm. Báo cáo của Samsung Việt Nam cho thấy, dù số lượng nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 của họ đã tăng lên đáng kể với 63 DN tính đến cuối năm 2024, nhưng phần lớn vẫn tập trung vào các lĩnh vực như bao bì, in ấn, cơ khí đơn giản. Số DN tham gia vào chuỗi cung ứng linh kiện công nghệ cao vẫn còn rất hạn hữu.
Đại diện Samsung Việt Nam nhận định: Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển CNHT. Các chính sách ưu đãi là tín hiệu tốt. Tuy nhiên, năng lực của các nhà cung ứng cấp 2, cấp 3 tại Việt Nam, đặc biệt trong ngành điện tử vẫn cần được nâng cao hơn nữa về công nghệ, quản lý chất lượng và khả năng đáp ứng đơn hàng lớn. Samsung kỳ vọng các chính sách sẽ thực sự đi vào chiều sâu, giúp các DN Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của mình.
Có thể thấy, Nghị định về CNHT cùng các chính sách ưu đãi đã tạo ra một “cú hích” nhất định, mang lại những tín hiệu tích cực cho các DN CNHT điện tử. Một số DN đã tận dụng tốt cơ hội để vươn lên, khẳng định vị thế. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra sự đột phá toàn diện. Để chính sách thực sự phát huy tối đa hiệu quả, cần có những giải pháp đồng bộ.
Cụ thể, tiếp tục rà soát, cắt giảm các thủ tục không cần thiết, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ để DN dễ dàng tiếp cận các ưu đãi về thuế, đất đai. Về phía Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại cần có cơ chế linh hoạt hơn trong việc thẩm định và cho vay đối với DN nhỏ và vừa trong lĩnh vực CNHT điện tử, xem xét các hình thức tài sản đảm bảo đa dạng hơn, hoặc dựa trên tiềm năng phát triển của DN. Bên cạnh chính sách ưu đãi, cần có các chương trình hỗ trợ DN CNHT điện tử nâng cao năng lực quản trị, công nghệ, chất lượng sản phẩm thông qua các khóa đào tạo, chuyển giao công nghệ, tư vấn chuyên sâu. Tăng cường các hoạt động kết nối giữa DN CNHT trong nước với các tập đoàn FDI, tạo điều kiện để các DN Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó nâng cao tiêu chuẩn và năng lực sản xuất. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về CNHT, điểu này sẽ giúp các DN lớn, đặc biệt là FDI, dễ dàng tìm kiếm đối tác và đẩy mạnh liên kết.
Không thể phủ nhận, hệ thống chính sách hỗ trợ cho ngành CNHT điện tử của Việt Nam đã được xây dựng tương đối toàn diện, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm của Chính phủ. “Cú hích” về mặt chủ trương đã có. Tuy nhiên, để lực đẩy này thực sự tạo ra sức bật cho DN, cần một cuộc cách mạng trong khâu thực thi.
Đã đến lúc cần có sự vào cuộc quyết liệt hơn nữa từ các bộ, ngành, địa phương để gỡ bỏ những rào cản về thủ tục, khơi thông dòng vốn tín dụng và xây dựng một hệ sinh thái kết nối bền chặt. Chỉ khi đó, các DN CNHT điện tử Việt Nam mới có thể thực sự lớn mạnh, tự tin bước vào chuỗi cung ứng toàn cầu và góp phần nâng cao giá trị “Made in Vietnam” một cách thực chất.
Trường An