Có thể nói, trong thời gian qua, lĩnh vực CNHT ngành ô tô đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bài toán nan giải đối với các DN vẫn là làm thế nào nâng cao được năng suất sản xuất, tạo ra được hàm lượng giá trị cao trong từng sản phẩm. Điều đó cần một cú chuyển mình thực sự từ ngay chính các DN trong ngành CNHT ô tô vốn đầy rẫy sự cạnh tranh gay gắt này.
Hiện nay, các DN CNHT ô tô tại Việt Nam mới sản xuất, gia công chưa được 300 chi tiết trong khi cả chiếc xe có khoảng 30.000 chi tiết linh kiện. Khách quan mà nói, hàm lượng công nghệ và giá trị các chi tiết linh kiện, phụ tùng này chưa cao khi mới chỉ là những linh kiện cồng kềnh, cần nhiều nhân công như ghế, bộ dây điện, vành bánh xe, ốp cửa, lốp không săm... Những chi tiết quan trọng về động cơ, hệ truyền động, hộp số, hệ thống an toàn, hệ thống điện tử trên xe, đặc biệt là chip bán dẫn, thì DN nội địa chưa sản xuất được và phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu.
Dẫu vậy, thời gian qua, các DN CNHT trong nước đã từng bước nâng cao trình độ, sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ, độ chính xác cao, góp phần tăng giá trị gia tăng. Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2023 Việt Nam nhập khẩu tổng cộng 2,835 tỷ USD và xuất khẩu 3,09 tỷ USD linh kiện phụ tùng ô tô. Có thể nói, các DN Việt Nam đang có thế mạnh trong sản xuất các bộ phận linh kiện về điện của ô tô. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của nhóm linh kiện về dây điện đạt khoảng 1,17 tỷ USD, chiếm 38% giá trị xuất khẩu linh kiện ô tô và đứng thứ 3 thế giới. Sản phẩm dây điện của DN Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng vật tư lắp ráp ô tô toàn cầu.
Tiến sỹ Trương Thị Chí Bình, Phó Tổng thư ký Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI) cho biết, có một tín hiệu đáng mừng là tỷ lệ tổng giá trị sản phẩm công nghiệp ô tô đã tăng nhanh trong những năm gần đây. Cụ thể là từ 12% vào năm 2018 đã lên 25% vào năm 2023. Đồng thời, xu thế của các DN là gia tăng giá trị sản phẩm. Thay vì tập trung vào linh kiện phụ tùng riêng lẻ, DN đã tập trung sản xuất cụm linh kiện, bắt đầu sản xuất thiết bị gốc (OEM) và hướng tới sản xuất thương hiệu gốc (OBM).
Những thống kê mới nhất đã chỉ ra rằng, nhu cầu ô tô của Việt Nam năm 2025 là khoảng 800 - 900 nghìn xe, đến năm 2030 khoảng 1,5 - 1,8 triệu xe. Dễ nhận thấy, nếu không phát triển ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, toàn bộ thị trường xe con sẽ là xe nhập khẩu; xe khách và xe tải nhập khẩu tới 50% và 50% sản xuất trong nước với tỷ lệ nội địa hóa 50%. Tính ra, kim ngạch nhập khẩu năm 2025 dự kiến khoảng 12 tỷ USD và năm 2030 là 21 tỷ USD. Như vậy có thể thấy rằng, dư địa cho ngành CNHT ô tô đang lớn đến mức nào. Vấn đề là các DN Việt Nam có chớp được cơ hội vàng này hay không?
Nhà máy sản xuất Mazda của THACO tại Chu Lai
Ông Nguyễn Công Quyết, đại diện Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) cũng cho rằng, thị trường ô tô Việt Nam rất có tiềm năng, nhờ quy mô dân số 100 triệu người và thu nhập bình quân ngày càng tăng. Tuy nhiên, ngành CNHT vẫn đang ở giai đoạn 1 (giai đoạn duy trì). Các DN chủ yếu sản xuất ra những linh phụ kiện có giá trị không cao và ít tính cạnh tranh. Một trong những vấn đề chính là do quy mô thị trường ô tô còn nhỏ bé, dẫn đến sản xuất nhỏ, khó phát triển chuỗi cung ứng.
Các chuyên gia đánh giá rằng, sản xuất linh kiện ô tô tại Việt Nam đang chia làm 2 nhánh: Những hoạt động có giá trị cao, được thực hiện bởi các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và những thương hiệu lớn trong nước; còn các hoạt động có giá trị thấp tập trung bởi những DN nhỏ và vừa. Trong đó, nhiều DN nhỏ và vừa đang rơi vào “bẫy năng suất thấp”. Do đó, cần phải thúc đẩy khu vực này chuyển đổi toàn diện, từ mục đích đến quy trình và con người, phải đẩy mạnh chuyển đổi số và hướng tới chuyển đổi xanh.
Một ví dụ điển hình về nỗ lực nâng cao năng suất trong ngành CNHT ô tô là THACO Trường Hải. Tỷ lệ nội địa hoá của DN này rất cao, có những dòng xe lên tới 70%. Các DN và đơn vị vệ tinh cho Trường Hải bao gồm: Trung tâm R&D; Trung tâm Cơ khí chế tạo và 17 nhà máy sản xuất linh kiện phụ tùng. Nhờ vậy, THACO đã chủ động nhiều loại linh kiện, phụ tùng ô tô, như ghế ô tô, linh kiện nội thất, kính, dây điện, nhíp; sản xuất khuôn, máy lạnh xe du lịch, máy lạnh xe tải, bus; linh kiện nhựa; thân vỏ ô tô, sơ mi rơ moóc… Năng lực nội sinh của Trường Hải còn được minh chứng thông qua cung ứng linh kiện OEM (sản xuất thiết bị gốc) cho nhiều hãng ô tô, xe máy tại Việt Nam như: Hyundai, Toyota, Isuzu, Piaggio cũng như các DN FDI khác như: General Electric, Doosan Vina, Makitech, Amann và xuất khẩu đi các thị trường trọng điểm như: Mỹ, Australia, Anh, Italy, Nga, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản… doanh thu đạt 160 triệu USD, với mục tiêu đạt 1 tỷ USD vào năm 2025.
Trường hợp của THACO cho thấy năng lực sản xuất của DN Việt Nam là hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu khắt khe từ các DN trong ngành, đặc biệt là các DN FDI. Nhưng để ngành CNHT ô tô của nước ta phát triển xứng tầm với kỳ vọng thì vẫn cần các cơ quan hữu quan đưa ra những giải pháp căn bản nhất từ chính sách, thị trường đến vốn đầu tư.
Phương Lê